7 Pháp luật & cuộc sống - Thứ Hai 10-3-2025 phapluat@phapluattp.vn pháp lý chặt chẽ Đại biểu Quốc hội NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH, Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM: Cần tuyên truyền để hiểu rõ về tài sản số, tài sản mã hóa Ở thời điểm hiện tại chúng ta không cần bàn về sự cần thiết của khung pháp lý cho tài sản mã hóa nữa, vì thực tế nó rất cần thiết rồi. Tuy nhiên, tôi cũng mong rằng cần tuyên truyền và truyền thông nhiều hơn cho người dân có sự tiếp cận đúng về tài sản số và tài sản mã hóa. Đối với dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số đã lấy ý kiến lần 1 trong kỳ họp lần 8 và trong dự thảo luật này cũng có một chương mà trong đó có một mục 4 điều về tài sản số và tài sản mã hóa, được Nhà nước bảo hộ theo BLDS và pháp luật sở hữu trí tuệ. Do đó, tôi mong muốn lan tỏa nhiều hơn về điều này và các chuyên gia có thể góp ý thêm những vấn đề quan trọng liên quan đến tài sản số, tài sản mã hóa của dự luật Công nghiệp công nghệ số, trước kỳ họp Quốc hội (cho ý kiến lần 2) tới. Ngoài ra, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025 (có hiệu lực từ ngày 1-4) thì Chính phủ có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm là nghị quyết để thực hiện thí điểm một số chính sách chưa có pháp luật điều chỉnh; giải quyết các vấn đề cấp bách, quan trọng phát sinh từ thực tiễn... Đây là một điểm mới mà doanh nghiệp, hiệp hội cần nắm để có những đề xuất phù hợp, kịp thời. PGS-TS LÊ MINH HÙNG, Trưởng khoa Luật Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM: Luật hóa tài sản mã hóa: Cần tính tới giá trị như tiền Cần phân biệt rõ giữa tiền điện tử của Ngân hàng Nhà nước với các loại tài sản mã hóa. Bởi vì tôi cho rằng tài sản mã hóa không phải là tiền nên nhất quán gọi là tài sản mã hóa, tài sản số. Bởi tiền phải có sự bảo chứng, độc quyền thanh toán quốc gia có chủ quyền, thứ hai là có mệnh giá. Chúng ta đứng ở góc độ luật pháp thì chúng ta chỉ thừa nhận tài sản mã hóa là loại tài sản kỹ thuật số, tài sản mã hóa hoặc xem nó là loại tài sản quyền tùy theo giai đoạn nào khác, đã chuyển giao cho chủ thể hay chưa. Như vậy, nếu chúng ta công nhận thì cần phải có pháp lý, tính toán giá trị của nó thành tiền của Nhà nước. Thứ hai, cũng cần tính toán đến trách nhiệm của không chỉ của sàn mà cần phải tính đến trách nhiệm của đơn vị quản lý. Bởi chủ thể tham gia không chỉ là người tạo ra (sàn) hoặc còn có thể Nhà nước hoặc đơn vị được ủy thác quản lý. Do đó, việc chiếm hữu trong môi trường số cũng cần được tính toán, chứ không phải “nắm lưng” mình sàn, mà cần “nắm lưng người quản lý”. Ông TRẦN HUYỀN DINH, CEO AlphaTrue: Học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia Với gần 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực blockchain và đã được cấp phép hoạt động tại năm quốc gia, tôi cho rằng Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý sàn từ Hong Kong, Thái Lan và nhiều quốc gia khác về cách quản lý và khuyến khích doanh nghiệp nội địa. Lấy ví dụ tại Thái Lan, nước này ngoài việc yêu cầu về đăng ký hoạt động tại Thái Lan thì người đứng đầu hoặc giám đốc điều hành của một sàn giao dịch phải cư trú tại quốc gia này. Chính sách này nhằm ưu tiên doanh nghiệp trong nước, tận dụng chất xám nội địa trước khi xem xét đến các công ty nước ngoài. Ngay cả khi doanh nghiệp nước ngoài muốn hoạt động tại Thái Lan, họ cũng phải cam kết hợp tác, thực hiện nghĩa vụ thuế và các chi phí liên quan và có một số người trong ban điều hành do Ủy ban Chứng khoán và giao dịch (SEC) Thái Lan chỉ định. Không chỉ Thái Lan, nhiều quốc gia châu Âu cũng áp dụng cách tiếp cận tương tự. Theo tôi, Việt Nam có thể tham khảo mô hình này. Cần đặt ra yêu cầu về sự hiện diện của doanh nghiệp nhưng cũng phải cân nhắc đến kiến thức và kinh nghiệm của người đứng đầu. Luật sư NGUYỄN HUỲNH PHƯƠNG THẢO, Công ty TNHH Infinity Việt Nam: Tạo khung pháp lý chuẩn mực quốc tế Hiện nay, chưa có một chuẩn mực quốc tế thống nhất về quản lý tài sản mã hóa. Các nước đang áp dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau, dẫn đến sự khác nhau trong chính sách thuế và quản lý thị trường. Việc quản lý không đồng nhất này đã gây ra sự phân chia trong chính sách thuế và quy định về tài sản mã hóa. Nếu Việt Nam có mức thuế suất thấp hoặc quy định dễ dàng hơn các nước khác, có thể thu hút dòng vốn nhưng cũng có nguy cơ trở thành điểm đến của các hoạt động rửa tiền. Còn nếu quy định quá chặt so với khu vực, Việt Nam có thể mất lợi thế cạnh tranh, dẫn đến dòng vốn chảy sang các quốc gia có chính sách cởi mở hơn. Do đó, Việt Nam cần hợp tác với các quốc gia khác để tạo ra một chuẩn mực quốc tế vì các lý do sau: Chống rửa tiền và trốn thuế; một mức thuế suất chung cho các giao dịch tài sản kỹ thuật số (tài sản mã hóa); hạn chế sự phân hóa trong quản lý… Cơ hội để giao dịch tài sản số, tài sản mã hóa phát triển Trước hết, ở góc độ quan hệ dân sự, hiện nay rất nhiều giao dịch liên quan đến tiền kỹ thuật số như mua bán, cho tặng, cho vay... Theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì đối tượng của các loại giao dịch này phải là tài sản. Do đó, nếu không xác định được tính chất pháp lý của tiền kỹ thuật số là tài sản thì các giao dịch đó sẽ gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, ở góc độ quản lý, các cơ quan nhà nước cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi chưa xác định được khung pháp lý hay bản chất của loại tiền kỹ thuật số. Chẳng hạn như trong lĩnh vực thuế. Số người tham gia kinh doanh tiền kỹ thuật số nhiều, thu lợi rất nhiều nhưng hiện nay cơ quan thuế đang lúng túng rằng liệu có thể thu thuế từ hoạt động này hay không. Bởi vì rõ ràng chúng ta chưa xác định tiền kỹ thuật số là tài sản để giao dịch hay không. Một ví dụ khác, nếu xảy ra việc trộm, cướp tiền kỹ thuật số thì cơ quan tố tụng cũng sẽ lúng túng trong việc xử lý khi chúng ta chưa có định danh rõ ràng tiền kỹ thuật số có là tài sản hay không. Hay như việc chia thừa kế, việc kê biên, thi hành án liên quan đến tiền kỹ thuật số sẽ được giải quyết ra sao… Qua những phân tích trên có thể thấy việc xây dựng khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số vừa tạo ra lợi ích kinh tế vừa đảm bảo an ninh tiền tệ cho đất nước. So với các nước trên thế giới thì việc xây dựng khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số ở Việt Nam là muộn, kéo theo hệ quả không tốt cho nền kinh tế. Do đó, cần sớm có quy định khẳng định tiền kỹ thuật số là một loại tài sản để từ việc xác định bản chất tài sản của tiền kỹ thuật số, chúng ta sẽ giải quyết được nhiều cái lúng túng hiện nay. Đặc biệt, ở góc độ quản lý của Nhà nước, chúng ta cần phải tạo ra một sàn giao dịch để cho tiền kỹ thuật số này được quản lý, hoạt động theo khuôn khổ, có kiểm soát. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính ngay trong tháng 3-2025 phải trình đề án để ban hành nghị quyết cho phép thí điểm vận hành sàn giao dịch tài sản số, tài sản mã hóa. Và khi sàn về tiền kỹ thuật số này được hình thành, chúng ta cần lưu ý ở một số điểm. Một là cần kiểm soát các tổ chức tham gia cung cấp dịch vụ về tiền kỹ thuật số. Cụ thể, chúng ta phải bảo đảm để người tiêu dùng có một địa chỉ để bảo vệ quyền lợi của họ. Chúng ta phải xem xét điều kiện để các sàn tiền kỹ thuật số nước ngoài được tham gia ở Việt Nam như thế nào, điều kiện và sự ràng buộc ra sao… để bảo vệ những người tiêu dùng ở Việt Nam. Chúng ta cũng phải thiết lập cơ chế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng (hay những người thừa kế của họ) trong mối tương quan với tổ chức cung cấp dịch vụ này. Ngoài ra, hiện đã có doanh nghiệp Việt Nam “sản xuất” được, tạo ra được tiền kỹ thuật số và đã xuất khẩu ra nước ngoài nhưng thương hiệu Việt chưa thực sự lớn. Có lẽ chúng ta cũng nên nghĩ tới việc tạo ra cơ chế ưu đãi để các doanh nghiệp Việt Nam có thể phát triển tiền kỹ thuật số ngày càng nhiều, càng có giá trị trong lĩnh vực này. Và cuối cùng, có lẽ chúng ta không nên sử dụng từ “tiền” khi nói về tài sản liên quan đến kỹ thuật số. Bởi “tiền” theo nghĩa thông thường thì nó phải do Nhà nước phát hành, trong khi “tiền kỹ thuật số” lại do tư nhân “phát hành”. Vì vậy, tốt nhất là chúng ta không nên sử dụng khái niệm “tiền kỹ thuật số” mà nên thống nhất gọi là “tài sản số” hay “tài sản mã hóa”. GS-TS ĐỖ VĂN ĐẠI, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật TP.HCM Luật và đời Ý kiến
RkJQdWJsaXNoZXIy Mjg2ODExMg==