081-2025

7 Pháp luật & cuộc sống - Thứ Hai 14-4-2025 phapluat@phapluattp.vn tội Nói chung, dù phán quyết theo hướng nào cũng đều tiềm ẩn những rủi ro pháp lý và có những điểm “gợn” nhất định. Đây là một tình thế tiến thoái lưỡng nan điển hình mà chúng ta chưa có phương án giải quyết. Tuy nhiên, chìa khóa để có thể giải quyết tình trạng này chính là chế định “thỏa thuận nhận tội”. Theo đó, với tình huống trên, kiểm sát viên và bị can, luật sư bào chữa có thể thỏa thuận với nhau về việc bị can nhận tội (thú tội) bằng một thỏa thuận nhận tội. Thỏa thuận này sau đó sẽ được gửi đến tòa án xem xét công nhận hoặc không công nhận mà tòa án không cần phải mở phiên tòa xét xử vụ án theo trình tự, thủ tục hiện hành. Một thỏa thuận nhận tội sẽ giúp đóng lại vụ án vốn dĩ đã kéo dài gây tốn kém thời gian, công sức, tiền bạc của hệ thống tư pháp, cũng như của chính người bị buộc tội và kịp thời đáp ứng quyền lợi chính đáng của bị hại (nếu có). Bởi xuất phát từ sự tự nguyện, nên việc thi hành thỏa thuận nhận tội sẽ đảm bảo được thực hiện một cách nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời mà xác suất của việc kháng cáo, kháng nghị sẽ thấp hơn rất nhiều. Việc này sẽ mang đến nhiều lợi ích, có thể kể đến như: Quá trình giải quyết vụ án nhanh, gọn giúp tiết kiệm thời gian, chi phí của tất cả các bên liên quan; giảm tải khối lượng các vụ án hình sự mà tòa án phải xét xử trong bối cảnh ngành tư pháp đang bị quá tải. Thỏa thuận nhận tội cũng làm hạn chế hoặc dẫn đến loại trừ (nếu đưa vào quy định) việc kháng cáo, kháng nghị các thỏa thuận đã được tòa án công nhận. Qua đó, khắc phục tình trạng hầu hết bản án sơ thẩm đều bị các bị cáo kháng cáo chỉ với mục đích duy nhất là xin giảm nhẹ hình phạt, gây áp lực lên cấp xét xử phúc thẩm. Đối với các bị hại, chế định này cũng sẽ giúp việc giải quyết các trách nhiệm hoàn trả lại tiền chiếm đoạt, bồi thường thiệt hại, cấp dưỡng… cho bị hại một cách nhanh hơn mà không phải đợi đến khâu thi hành án sau khi bản án xét xử (có thể là hai cấp) có hiệu lực thi hành.• Đề xuất trường hợp viên chức được thành lập và quản lý doanh nghiệp Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) đã đề xuất trường hợp ngoại lệ cho phép viên chức được quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp. Mới đây, Bộ Tư pháp công bố hồ sơ thẩm định dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp (DN). Trong đợt sửa đổi lần này, cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Tài chính đã đề xuất nhiều quy định mới như lần đầu quy định về “chủ sở hữu hưởng lợi” của DN để phòng, chống các hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, tham nhũng, rửa tiền và tài trợ khủng bố. Hay như sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh đối với hoạt động quản lý DN... Khuyến khích DN đổi mới sáng tạo Một trong những nội dung đáng chú ý trong dự thảo là cơ quan chủ trì soạn thảo đã đề xuất cho viên chức, viên chức quản lý được tham gia thành lập, góp vốn và quản lý DN trong lĩnh vực khoa học, đổi mới sáng tạo. Cụ thể, như chúng ta đã biết, điểm b khoản 2 Điều 17 Luật DN hiện nay không cho phép cán bộ, công chức, viên chức được tham gia thành lập và quản lý DN tại Việt Nam (không có trường hợp ngoại lệ). Tuy nhiên, trong dự thảo đã đề xuất sửa đổi theo hướng cán bộ, công chức, viên chức (theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức) không có quyền thành lập và quản lý DN tại Việt Nam trừ viên chức, viên chức quản lý làm việc tại tổ chức khoa học và công nghệ công lập, cơ sở giáo dục đại học công lập theo quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Hiện dự thảo Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã ghi nhận vấn đề này, đang được hoàn thiện và sẽ được trình Quốc hội thông qua ban hành ở kỳ họp thứ 9 vào tháng 5-2025. Một lý do khác được đưa ra khi đề xuất quy định này là để phù hợp với Điều 4 Nghị quyết 193/2025 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Điều 4 của nghị quyết này cho phép chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ khi sử dụng ngân sách nhà nước mà không đạt được kết quả hay gây ra thiệt hại sẽ được miễn trách nhiệm dân sự. Bổ sung khái niệm mới để phòng, chống rửa tiền Lần đầu khái niệm mới “chủ sở hữu hưởng lợi” được định nghĩa bổ sung tại khoản 37 Điều 4. Theo đó, chủ sở hữu hưởng lợi của DN có tư cách pháp nhân là cá nhân có một trong các tiêu chí như: Cá nhân thực tế nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu từ 25% vốn điều lệ trở lên của DN; cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng hơn 25% cổ tức hoặc lợi nhuận của DN hoặc cá nhân cuối cùng có quyền chi phối DN. Sở dĩ quy định về chủ sở hữu hưởng lợi của DN dựa trên các thông lệ quốc tế về quản trị DN đều đặt ra yêu cầu minh bạch hóa thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi. Việc nhận diện chủ sở hữu hưởng lợi và cung cấp thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi còn là những biện pháp quan trọng để phòng, chống các hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, tham nhũng, rửa tiền và tài trợ khủng bố. Thực tế nước ta đã phát sinh tình trạng núp bóng sở hữu, với nhiều vụ việc tổ chức, cá nhân kiểm soát DN thiếu minh bạch, lạm dụng vị thế kiểm soát DN để thực hiện các hành vi tham nhũng, rửa tiền và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Với khái niệm mới về chủ sở hữu hưởng lợi, cơ quan chủ trì soạn thảo đã quy định những vấn đề liên quan như: DN phải có nghĩa vụ thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi; chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi. Ngoài ra, DN có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi tại thời điểm đăng ký thành lập. Trường hợp DN không có chủ sở hữu hưởng lợi tại thời điểm thành lập DN thì DN phải thông báo kịp thời thông tin trong thời hạn 10 ngày kể từ thời điểm phát sinh thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi. Người đại diện theo pháp luật của DN cũng phải có trách nhiệm cung cấp chính xác, đầy đủ các thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của DN theo quy định của pháp luật và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu để xác định chủ sở hữu hưởng lợi của DN. HỮ U ĐĂNG Luật sư PHẠM VĂN LẠC, Đoàn Luật sư TP.HCM: Việt Nam đã có cơ chế tương tự Mục tiêu của Thỏa thuận nhận tội là đơn giản hóa thủ tục tố tụng, nâng cao hiệu quả xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhờ những lợi ích thực tiễn, nguyên tắc này đã được áp dụng tại nhiều quốc gia, mỗi mô hình tố tụng khác nhau sẽ có sự khác biệt trong cách quy định “thỏa thuận nhận tội”. Ở Việt Nam, mặc dù khái niệm “thỏa thuận nhận tội” chưa được quy định trực tiếp dưới tên gọi này trong các văn bản pháp luật, tuy nhiên cơ chế tương tự đang từng bước được ghi nhận và áp dụng, đặc biệt từ khi BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực. Thực tiễn ghi nhận trong các vụ án, việc bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực khắc phục hậu quả… sẽ được hưởng mức án nhẹ hơn hoặc xử lý theo hướng khoan hồng. Tuy nhiên, tôi cho rằng việc đưa “thỏa thuận nhận tội” trở thành một chế định trực tiếp thì chưa phù hợp với hành lang pháp lý và mặt bằng hiểu biết về pháp luật của người dân hiện nay. ThS NGUYỄN SƠN PHƯỚC, Trường CĐ Cảnh sát nhân dân II: Cần dự liệu tình huống nhận tội thay Qua nghiên cứu quá trình áp dụng thực tiễn ở một số nước như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… thì thỏa thuận nhận tội giúp giảm áp lực cho hệ thống tư pháp, có tính khả thi cao. Vì thế đây cũng là xu hướng của cải cách tư pháp mà nước ta nên hướng tới. Việc quy định “thỏa thuận nhận tội” là một chế định cụ thể (điều luật cụ thể) là điều nên làm. Tuy nhiên, khi áp dụng “thỏa thuận nhận tội” thì cần dự liệu tình huống nhận tội thay vì mục đích thương mại hoặc giúp người thân, khi đó rất dễ xảy ra oan sai. Do đó, nếu quy định không được quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bị cáo đã “thỏa thuận nhận tội” thì khó đảm bảo tính minh bạch. Một vấn đề nữa cần quan tâm đó là tên gọi của chế định pháp luật liên quan đến “thỏa thuận nhận tội”. Nếu thay bằng tên gọi “cam kết nhận tội” thì nghe có vẻ mang tính trách nhiệm hơn là “thỏa thuận nhận tội”. Luật sư NGUYỄN THÀNH CÔNG, Ủy viên Ban chủ nhiệm, Đoàn Luật sư TP.HCM: Một số lưu ý khi áp dụng thỏa thuận nhận tội Cần lưu ý một số đặc điểm quan trọng khi áp dụng thỏa thuận nhận tội. Thứ nhất là tính tự nguyện - thỏa thuận nhận tội phải hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của bị cáo, không có ép buộc, ví dụ lừa dối. Thứ hai là tính minh bạch - quá trình đồng ý phải được thực hiện một cách minh bạch, có sự tham gia của các bên liên quan và được ghi nhận đầy đủ. Thứ ba là phải bảo đảm quyền của người bị tổn hại, cần có cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong quá trình thỏa thuận nhận tội. Thứ tư là vai trò của luật sư, luật sư đóng vai trò quan trọng trong công việc tư vấn pháp lý, bảo vệ quyền lợi cho bị cáo và đảm bảo tính hợp pháp của các thỏa thuận… Thứ năm là sự phê chuẩn của tòa án, thỏa thuận nhận tội chỉ có hiệu lực khi được tòa án phê chuẩn sau khi xem xét kỹ lưỡng tính tự nguyện, hợp pháp và phù hợp với các quy định của pháp luật. NGUYỄN CHÍNH - YẾN CHÂU ghi Ý kiến

RkJQdWJsaXNoZXIy Mjg2ODExMg==