120-2025

7 Pháp luật & cuộc sống - Thứ Hai 2-6-2025 phapluat@phapluattp.vn Đã từ lâu, trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, để diễn tả một mặt trái của nó, người ta thường dùng cụm từ “hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế” để chỉ một hiện tượng các cơ quan tiến hành tố tụng đã dùng các biện pháp, chế tài hình sự để xử lý các hành vi chỉ là vi phạm pháp luật dân sự kinh tế (mà chưa hoặc không phải) là vi phạm pháp luật hình sự, thay vì phải áp dụng các chế tài dân sự, kinh tế để xử lý. Việc áp dụng các chế tài hình sự như thế đối với các vi phạm dân sự, kinh tế đã làm oan cho các chủ thể tham gia các quan hệ này, trong đó có các doanh nhân. Việc một số doanh nhân vô cớ bị bắt khiến hoạt động kinh doanh của họ bị đình trệ; còn những doanh nhân khác nhìn vào và “chùn” lại, không dám sáng tạo, không dám dấn thân… Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân pháp luật quy định chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc hiểu và áp dụng gặp những lúng túng nhất định. Ai cũng biết việc hiểu và áp dụng luật lại phụ thuộc vào trình độ nhận thức, năng lực hoạt động nghề nghiệp của các chủ thể tiến hành tố tụng. Ví dụ, trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, về mặt khách quan của tội phạm, có dấu hiệu bắt buộc là phải có hành vi gian dối. Trong các giao dịch dân sự, kinh tế, khi quy định về các giao dịch vô hiệu thì hành vi gian dối cũng là một dấu hiệu dẫn đến giao dịch vô hiệu do bị lừa dối. Như vậy, về mặt khách quan, hành vi gian dối là dấu hiệu chung của vi phạm pháp luật hình sự và dân sự, kinh tế. Nhưng về mặt chủ quan, có sự khác nhau cơ bản để phân biệt. Đó là nếu hành vi gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì hành vi đó mới cấu thành tội phạm; nếu không có mục đích này thì hành vi đó thì chỉ là vi phạm về dân sự, kinh tế mà thôi. Nhưng trên thực tế trong các giao dịch dân sự, kinh tế, có trường hợp cơ quan điều tra cứ thấy có dấu hiệu hành vi gian dối thì mặc nhiên coi đó là dấu hiệu tội phạm hình sự; mặc dù những vi phạm đó chỉ là vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch theo hợp đồng ký kết. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến oan sai trong tố tụng hình sự là những người tiến hành tố tụng còn vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội. Hành vi vi phạm này có thể cũng bắt nguồn từ nhận thức pháp luật nhưng cũng có thể xuất phát từ bệnh thành tích, sợ trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Thực tế, một số vụ án oan sai, gặp trường hợp chưa đủ các chứng cứ vật chất để xác định việc phạm tội nên rất cần lời khai nhận của bị can, những người tiến hành tố tụng đã tìm mọi cách để chứng minh là “người bị bắt có tội” thông qua các biện pháp mà pháp luật tố tụng hình sự đã nghiêm cấm như mớm cung, bức cung, nhục hình… để bổ sung vào hệ thống chứng cứ kết tội… Để hạn chế việc “hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế”, cần có một hệ thống pháp luật hình sự đầy đủ, rõ ràng, cụ thể để tránh tình trạng ai hiểu thế nào cũng được dẫn đến tùy tiện trong việc áp dụng các biện pháp xử lý. Đồng thời phải giúp các chủ thể tiến hành tố tụng nâng cao trình độ, hiểu biết pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, về nghiệp vụ điều tra, truy tố, xét xử; trong đó cần chú ý đến việc bồi dưỡng đạo đức nghề luật cho họ, để tránh vì lý do nào đó “biết sai mà vẫn cứ làm”, bảo đảm tính nhân văn của nghề luật, cái nghề tưởng như rất khô khan, nghiệt ngã… Luật sư NGUYỄN MINH TÂM, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam Không thể “mua bán” công lý! (Tiếp theo trang 1) Cơ quan điều tra VKSND Tối cao vừa có kết luận điều tra vụ án đưa, nhận, môi giới hối lộ xảy ra tại TAND Cấp cao tại Đà Nẵng và một số tỉnh, thành. Nhìn danh sách 23 bị can - phần lớn đều là cựu thẩm phán, cựu kiểm sát viên và luật sư… - hẳn nhiều người thấy rất phẫn nộ. Thế nhưng ngay sau đó, nhiều người lại có cảm giác xót xa, bởi chính những người từng thực thi công lý lại biến công lý trở thành món hàng để đem ra ngã giá nhằm thu lợi bất chính. Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc hiến định. Đây cũng là nguyên tắc quan trọng cốt lõi trong hoạt động xét xử. Ấy thế mà ở đây, các thẩm phán - những quan tòa cầm cân nảy mực, nhân danh Nhà nước khi xét xử lại cố tình quên đi những điều cơ bản nhất là “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật”. Điển hình trong vụ án là cựu phó chánh án TAND Cấp cao tại Đà Nẵng Phạm Việt Cường. Ông ta bị cáo buộc đã nhận hàng trăm triệu đồng để “giải quyết” đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của một vụ án dân sự, một vụ kinh doanh thương mại và giảm nhẹ cho hai bị cáo trong một vụ hình sự. Các buổi thỏa thuận đều xảy ra tại phòng làm việc của ông - nơi đáng lẽ chỉ dành để làm việc, nghiên cứu hồ sơ nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Hay như nữ phó phòng giám đốc kiểm tra của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng Nguyễn Thị Nga - người bị cáo buộc đã sử dụng các mối quan hệ có được từ công việc để tham gia 10 vụ môi giới hối lộ với số tiền gần 7 tỉ đồng. Bà Nga đã móc nối với kiểm sát viên, luật sư… làm cầu nối trung gian cho các bị cáo, bị án, đương sự hoặc người quen kết nối đến những người có thẩm quyền giải quyết vụ án. Từ đó, các bị cáo, bị án hoặc đương sự trong các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại đã được xét xử theo hướng có lợi. Nói cách khác, những bị cáo, bị án, đương sự đã dùng tiền để tác động; còn những quan tòa (hiện đang là bị can trong vụ án nói trên) đã vì tiền mà đổi trắng thay đen, bẻ cong sự thật và bóp méo công lý. “Vô phúc đáo tụng đình”, người dân chẳng đặng đừng mới phải lôi nhau ra chốn công đường để nhờ quan tòa phán xử. Đó cũng là tinh thần thượng tôn pháp luật, là ứng xử văn minh trong xã hội pháp quyền. Đến tòa, người dân không chỉ chờ một phán quyết mà hơn hết, họ gửi gắm vào đó một niềm tin công lý. Họ tin rằng tòa án sẽ cho họ lẽ phải và sự công bằng - dù họ là bên thắng hay thua, bên nguyên hay bị. Thế nhưng vụ việc tại TAND Cấp cao tại Đà Nẵng và một số tỉnh, thành đã ít nhiều khiến người dân giảm đi sự yên tâm khi đặt niềm tin vào phán quyết của tòa. Bởi trước giờ người dân luôn nghĩ rằng: “Các phán quyết của tòa luôn dựa trên sự thật khách quan; luôn tựa vào lẽ phải và công bằng; luôn soi rọi dựa trên quy định pháp luật”. Mới thấy, một khi người thực thi công lý lại đi bóp méo công lý thì sẽ gây nên hậu quả thế nào! Vậy nên việc Cơ quan điều tra VKSND Tối cao quyết liệt vào cuộc nhằm đưa sự việc ra ánh sáng, xử nghiêm những “con sâu làm rầu nồi canh”… là điều rất đáng hoan nghênh. Công lý không phải là món hàng để mang ra bán buôn, đổi chác! Sắp tới đây, những người làm sai sẽ phải nhận lãnh bản án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của họ. Điều này cũng góp phần củng cố niềm tin của người dân vào công lý, vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhưng trên hết, chúng ta phải có cơ chế để những người thực thi pháp luật luôn giữ được sự liêm chính, công bằng. Bởi liêm chính là chiếc khiên để bảo vệ công lý, bảo vệ niềm tin và sự tín thác của người dân vào các cơ quan tố tụng. Muốn làm được điều này, như PGS-TS Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao, đã nói Nhà nước cần triển khai các giải pháp đồng bộ để “4 không”: Không thể tham nhũng (tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách pháp luật, bịt kín các kẽ hở, lỗ hổng trong quản lý có thể dẫn tới tham nhũng); không muốn tham nhũng (xây dựng ý thức tự giác, đạo đức, văn hóa liêm chính trong toàn xã hội); không cần tham nhũng (đảm bảo điều kiện sống, làm việc, thu nhập chính đáng, đẩy đủ cho đội ngũ cán bộ, công chức để họ không vì áp lực cuộc sống mà tham nhũng); không dám tham nhũng (nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tham nhũng). NGUYỄN QUÝ Luật và đời Nâng cao nghiệp vụ, tôn trọng nguyên tắc suy đoán vô tội Vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội có thể cũng bắt nguồn từ nhận thức pháp luật nhưng cũng có thể xuất phát từ việc sợ trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Pháp Luật TP.HCM điểm lại một số vụ hình sự hóa; qua đó cùng nhận diện, lý giải nguyên nhân và đề ra giải pháp chống “hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế”, giúp doanh nhân yên tâm làm ăn, phát triển kinh tế nước nhà. vụ doanh nhân đã dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của ông Dâng (Công ty TNHH MTV Tân Triều) thì không được xử lý ông Vân về tội lừa đảo; việc khởi tố ông là không có cơ sở”... Tháng 6-2011, công ty của ông Vân đã được UBND tỉnh Vĩnh Long phê duyệt dự án đầu tư công trình. Chỉ ba tháng sau, phía ông Vân đã ký hợp đồng để phía công ty của ông Dâng làm nhà thầu phụ. Mãi đến hơn nửa năm sau đó, UBND tỉnh mới ra công văn thu hồi chủ trương dự án. Như vậy, dự án là có thật; việc ông Vân ký hợp đồng, nhận tiền đều nằm trong khoảng thời gian dự án chưa bị thu hồi. Do đó không thể nói rằng ông Vân có thủ đoạn gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của ông Dâng. Cơ quan tố tụng cũng chưa chứng minh được ý thức lừa dối của ông Vân. Trong khi đó, hợp đồng được ký giữa công ty của ông Vân và công ty của ông Dâng đều trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Khi UBND tỉnh thu hồi dự án, nếu có phát sinh tranh chấp hợp đồng thì các bên phải giải quyết bằng một vụ kiện ra tòa kinh tế.• Kỳ tới: Tạo hành lang pháp lý an toàn cho doanh nghiệp Công nhân sản xuất tại một công ty ở TP.HCM. Ảnh: HOÀNG GIANG Luật sư Nguyễn Minh Tâm.

RkJQdWJsaXNoZXIy Mjg2ODExMg==