128-2025

11 Kinh tế - Thứ Tư 11-6-2025 kinhtedothi@phapluattp.vn Tọa đàm“Loại bỏ những rào cản để kinh tế tư nhân phát triển theo Nghị quyết 68” có sự tham gia của chuyên gia kinh tế, TS Trần Du Lịch; TS Trần Quang Thắng, Viện trưởng Viện Kinh tế và quản lý TP.HCM; ông Nguyễn Hoàng Hải, nguyên Phó Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM; ông Phạm Bình An, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM; TS Trần Quý, Viện trưởng Viện Phát triển kinh tế số Việt Nam; ThS Vũ Xuân Hưng, Trưởng phòng Pháp chế VCCI - Chi nhánh TP.HCM. Cùng với đó là lãnh đạo của nhiều DN như đại diện Công ty CP Dược phẩm Pharmacity; ông Huỳnh Tấn Lộc, Giám đốc Công ty TNHH SkyBus; ông Vũ Đức Hậu, đại diện Vietcombank - Chi nhánh Long Thành, cùng đại diện lãnh đạo Agribank khu vực miền Nam, giám đốc các công ty Bình Tây Food, Thái Minh Hưng, bao bì Phước Thịnh, Natural House, Happy Nuts Việt Nam... Tiêu điểm liệt Để doanh nghiệp tư nhân bứt phá: Cốt lõi nằm ở khâu thực thi Hơn cả việc tiết kiệm tiền bạc và thời gian, hậu kiểm còn xây dựng một văn hóa kinh doanh trưởng thành hơn, nơi Nhà nước tin tưởng trao quyền và doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm tự tuân thủ. Phân tích ở góc độ chuyên gia, TS Trần Du Lịch, chuyên gia kinh tế, cho rằng DN có thể tự nỗ lực giải quyết bài toán vốn và kinh doanh nhưng những rào cản về pháp lý, quy định thì họ không thể tự mình tháo gỡ. Đây là lúc vai trò “bà đỡ” của Nhà nước cần được thể hiện rõ nét. Ông cũng gợi mở việc học hỏi mô hình từ Nhật Bản, nơi Nhà nước xây sẵn các nhà xưởng quy mô nhỏ cho DN thuê trong năm năm đầu. “Cách làm này giúp DN ổn định sản xuất ban đầu. Khi họ lớn mạnh, họ có thể tự tìm mặt bằng lớn hơn, nhường lại cơ hội cho DN mới” - ông Lịch nói. “Suy cho cùng, một chính sách hỗ trợ tốt giống như một cơn mưa rào quý giá. Tuy nhiên, để “nước mưa” thật sự thấm sâu và nuôi dưỡng mảnh đất DN, cần phải có sự chuẩn bị đồng bộ về hạ tầng và cơ chế thực thi, nếu không thì chính sách sẽ khó phát huy hiệu quả, chỉ như nước chảy qua mà thôi” - TS Lịch chia sẻ.• NHÓM PHÓNG VIÊN Được xem là động lực quan trọng của kinh tế nhưng khu vực DN tư nhân vẫn đang “mắc kẹt” trong một ma trận thủ tục, chi phí tuân thủ và các rào cản vô hình. Để tạo ra cú hích thực sự cho DN bứt phá, cần một chiến lược tổng lực, thực chất. Các chuyên gia nhấn mạnh khâu đột phá nằm ở việc quyết liệt cắt giảm gánh nặng hành chính, xóa bỏ “giấy phép con” và chuyển đổi thành công sang cơ chế hậu kiểm hiệu quả. TS TRẦN QUANG THẮNG, Viện trưởng Viện Kinh tế và quản lý TP.HCM: Cốt lõi hiện nay nằm ở khâu thực thi Khu vực kinh tế tư nhân đang đối mặt với hàng loạt áp lực cố hữu: Thiếu vốn, quản trị yếu, ngại đổi mới sáng tạo, liên kết chuỗi giá trị kém và nguồn nhân lực chưa đáp ứng. Đáng nói, dù Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ, không ít DN, đặc biệt là DN nhỏ và siêu nhỏ, vẫn loay hoay vì khó tiếp cận. Đây chính là những rào cản hữu hình đang kìm hãm khu vực kinh tế này. Để tháo gỡ các điểm nghẽn, cần một chiến lược tổng thể thay vì các giải pháp riêng lẻ. Nền tảng cho chiến lược này là sự cộng hưởng của bốn trụ cột đã được các nghị quyết của Đảng vạch ra: Thúc đẩy khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế sâu rộng, đổi mới xây dựng pháp luật và lấy kinh tế tư nhân làm trọng tâm. Sự kết hợp này sẽ tạo cú hích tổng lực, cải thiện môi trường kinh doanh. Trên nền tảng đó, cần triển khai các giải pháp đột phá, thực chất. Về pháp lý - hành chính, phải quyết liệt giảm rào cản, không hình sự hóa quan hệ kinh tế và cắt giảm 30% thời gian giải quyết thủ tục. Về tài chính, cần cải cách thị trường vốn, thúc đẩy quỹ bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa, triển khai tín dụng xanh. Đặc biệt, chính sách cho phép DN tính 200% chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) vào chi phí được trừ là đòn bẩy quan trọng để khuyến khích sáng tạo. Với hệ sinh thái khởi nghiệp, cần mở rộng không gian thử nghiệm pháp lý (sandbox) cho các startup công nghệ, đồng thời đẩy mạnh quỹ đầu tư mạo hiểm để khơi thông dòng vốn. Đối với hộ kinh doanh, việc chuyển đổi sang hóa đơn điện tử từ máy tính tiền và xóa bỏ thuế khoán là bước đi cần thiết để minh bạch hóa môi trường kinh doanh. Dù Nhà nước đã có nhiều giải pháp, vấn đề cốt lõi hiện nay nằm ở khâu thực thi. Chỉ khi thủ tục hành chính được đơn giản hóa, minh bạch và các chính sách hỗ trợ đến đúng tay DN nhỏ và siêu nhỏ, kinh tế tư nhân mới thực sự có một môi trường thuận lợi để phát triển đột phá. ThS VŨ XUÂN HƯNG, Trưởng phòng Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - TP.HCM (VCCI - HCM): Để cắt giảm 30% thủ tục, cần xóa bỏ giấy phép con, minh bạch mọi điều kiện Mục tiêu cắt giảm 30% thời gian, chi phí thủ tục đã có nhưng gánh nặng vẫn đè nặng DN với những con số đáng báo động. Cần những giải pháp cấp bách, cụ thể để mệnh lệnh cải cách thực sự đi vào cuộc sống. Những con số từ một cuộc khảo sát đã chỉ ra gánh nặng tuân thủ vẫn còn rất lớn. Một DN vẫn phải tốn gần 24% quỹ thời gian chỉ để lo thủ tục pháp lý. Hai “nỗi ám ảnh” lớn nhất là đất đai và thuế, phí. Đáng lo ngại, gần 37% DN thừa nhận phải trả chi phí không chính thức và 67% cảm thấy nhũng nhiễu là phổ biến. Dù không phải khó khăn hàng đầu, thủ tục hành chính vẫn là một rào cản hữu hình. Từ thực trạng này, một công thức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật đã được đề xuất, dựa trên bốn tiêu chí cốt lõi: Minh bạch (dễ hiểu, không sơ hở), thống nhất (đồng bộ với cam kết quốc tế), khả thi (phù hợp thực tiễn) và hợp lý (DN thực hiện được). Đặc biệt, cần có hành động cấp bách để hỗ trợ DN nhỏ, siêu nhỏ và thúc đẩy khởi nghiệp. Các giải pháp đột phá được đề xuất gồm: Triển khai ngay gói tín dụng ưu đãi; dành 5%-10% quỹ đất khu công nghệ cao cho startup thuê giá rẻ; mở rộng mô hình thử nghiệm pháp lý (sandbox) trên toàn quốc và xây dựng các trung tâm tư vấn pháp lý miễn phí hoặc trợ giá. Để hiện thực hóa “mệnh lệnh 30%”, công thức được vạch ra rất cụ thể. Thứ nhất, muốn giảm thời gian, phải số hóa dịch vụ công, rút gọn quy trình, nâng cao năng lực cán bộ. Thứ hai, muốn giảm chi phí, phải loại bỏ quy định không cần thiết, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Thứ ba, muốn giảm điều kiện kinh doanh, phải xóa bỏ “giấy phép con”, công khai, minh bạch mọi điều kiện. Nền tảng cho tất cả điều này là sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước và DN, ứng dụng công nghệ và một cơ chế rà soát pháp luật thường xuyên. TS TRẦN QUÝ, Viện trưởng Viện Phát triển kinh tế số Việt Nam: Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, cởi trói cho doanh nghiệp Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đang là chủ trương quyết liệt, một xu thế tất yếu trên toàn cầu mà Việt Nam đang mạnh mẽ theo đuổi để kiến tạo môi trường kinh doanh thực sự thông thoáng. Chủ trương chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” đã được các cấp lãnh đạo cao nhất khẳng định như một quyết tâm chính trị dứt khoát. Mục tiêu cốt lõi là giải phóng DN khỏi những gánh nặng thủ tục, tạo động lực cho kinh tế tư nhân phát triển. Lợi ích là vô cùng to lớn và đã được chứng minh. Bài học từ việc thay đổi trong quản lý an toàn thực phẩm theo Nghị định 15/2018/NĐ-CP là một ví dụ, sự thay đổi trong tư duy quản lý này đã giúp giảm trên 90% chi phí hành chính, tiết kiệm khoảng 3.700 tỉ đồng mỗi năm. Hay như việc Bộ KH&CN chuyển 91% nhóm sản phẩm sang hậu kiểm đã giúp DN thoát khỏi vô số thủ tục rườm rà. Hơn cả việc tiết kiệm tiền bạc và thời gian, hậu kiểm còn xây dựng một văn hóa kinh doanh trưởng thành hơn, nơi Nhà nước tin tưởng trao quyền và DN nâng cao trách nhiệm tự tuân thủ. Tuy nhiên, con đường chuyển đổi này không hề bằng phẳng. Rủi ro lớn nhất chính là nguy cơ chính sách bị lợi dụng nếu cơ chế giám sát yếu kém. Các công ty “ma” có thể lợi dụng kẽ hở để mua bán hóa đơn, trốn thuế, rửa tiền, gây thất thu ngân sách hàng chục ngàn tỉ đồng và làm méo mó môi trường cạnh tranh. Hậu kiểm không có nghĩa là buông lỏng quản lý, mà ngược lại, nó đòi hỏi năng lực của cơ quan nhà nước phải cao hơn, phức tạp hơn. Thách thức lớn nhất chính là cuộc cách mạng trong tư duy, chuyển từ chờ DN mắc lỗi để xử phạt sang cảnh báo để DN không mắc lỗi. Để cuộc cải cách này thực sự hiệu quả và đi vào thực chất, một chiến lược đồng bộ gồm năm trọng tâm được đề xuất. Một là, phải khẩn trương hoàn thiện một khung pháp lý vững chắc về hậu kiểm, trong đó xác định rõ các tiêu chí đánh giá rủi ro, quy trình và chế tài đủ sức răn đe. Hai là, phải đổi mới căn bản tư duy và phương thức quản lý của cơ quan nhà nước, quyết liệt chuyển sang tư duy phục vụ, hỗ trợ. Ba là, công nghệ là lời giải không thể thiếu. Cần đầu tư xây dựng các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ, kết nối được với nhau, đồng thời ứng dụng mạnh mẽ dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích rủi ro, giúp xác định đúng đối tượng cần kiểm tra, tránh việc kiểm tra tràn lan gây phiền hà cho các DN làm ăn chân chính. Bốn là, cần có cơ chế thưởng - phạt nghiêm minh, công bằng. Các DN có lịch sử tuân thủ tốt cần được hưởng cơ chế ưu đãi như giảm tần suất kiểm tra, trong khi các hành vi vi phạm phải bị xử lý kịp thời. Song song đó, phải quy trách nhiệm rõ ràng cho cán bộ nếu buông lỏng quản lý. Cuối cùng, phải phát huy tối đa vai trò giám sát của xã hội, của các hiệp hội DN và truyền thông, tạo thành một cơ chế hợp tác công - tư chặt chẽ để kịp thời phát hiện và điều chỉnh những bất cập. Năm giải pháp này không thể tách rời mà là một hệ sinh thái hoàn chỉnh. Một khung pháp lý tốt sẽ trở nên vô nghĩa nếu tư duy và năng lực của người thực thi không thay đổi.•

RkJQdWJsaXNoZXIy Mjg2ODExMg==