7 Ngày 8-8, sau nhiều ngày xét xử tại trại tạm giam số 2 Công an tỉnh Đồng Tháp, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã tuyên án phúc thẩm vụ cưỡng đoạt tài sản hơn 100 bị cáo trong vụ “núp bóng” Công ty Luật TNHH Pháp Việt để đòi nợ thuê. HĐXX xác định đây là vụ án có tổ chức, trong đó Trần Văn Châu và Hồ Quốc Hùng, hai cựu phó giám đốc Công ty Luật TNHH Pháp Việt giữ vai trò chủ mưu, trực tiếp tổ chức thực hiện tội phạm. Châu và Hùng thành lập công ty, tuyển dụng nhân viên, phân công trưởng nhóm, trưởng phòng và chỉ đạo thu hồi nợ bất chấp, nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Hành vi của các bị cáo được đánh giá đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của nhiều cá nhân, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội. Tài sản chiếm đoạt đặc biệt lớn, lên đến hàng trăm tỉ đồng; phạm tội có tổ chức, diễn ra trong thời gian dài. Tại phiên tòa, Châu và Hùng tự nguyện nộp 500 triệu đồng khắc phục nhưng số tiền này quá nhỏ so với khoản thu lợi bất chính. HĐXX phúc thẩm tuyên y án Trần Văn Châu 19 năm tù, Hồ Quốc Hùng 18 năm tù, cùng về tội cưỡng đoạt tài sản. Ngoài ra, 22 bị cáo khác lãnh án từ 2 năm tù (nhưng cho hưởng án treo) đến 13 năm tù; một số trưởng nhóm bị tăng án theo kháng nghị của VKS; một số bị cáo được giảm án, trong đó bốn bị cáo nữ có con nhỏ, vai trò hạn chế, được xử án treo. 43 bị cáo bị đình chỉ xét xử phúc thẩm do rút kháng nghị hoặc kháng cáo; 44 bị cáo khác bị bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm. Theo cáo trạng, từ ngày 1-1-2021 đến 14-2-2023, Châu và Hùng lợi dụng danh nghĩa Công ty Luật TNHH Pháp Việt ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với bảy tổ chức tín dụng, chỉ đạo 20 trưởng nhóm và 579 nhân viên dùng nhiều thủ đoạn đe dọa, uy hiếp 172.629 người vay, cưỡng đoạt hơn 456 tỉ đồng. Các đơn vị ký hợp đồng dịch vụ trả phí hơn 168 tỉ đồng. Số tiền này được dùng chi trả hoạt động công ty và tiêu xài cá nhân, trong đó Châu hưởng 15 tỉ đồng, Hùng hưởng 12 tỉ đồng. Trước đó, tháng 8-2024, TAND tỉnh Tiền Giang cũ xử sơ thẩm, tuyên phạt Châu 19 năm tù, Hùng 18 năm tù; 109 bị cáo còn lại nhận án 1-13 năm tù và buộc nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính. HẢ I DƯƠNG Pháp luật & cuộc sống - Thứ Bảy 9-8-2025 SONG MAI Ngày 8-8, TAND TP.HCM mở phiên xét xử sơ thẩm vụ tranh chấp về yêu cầu bồi thường giữa nguyên đơn là bà LTN (29 tuổi, Việt kiều Mỹ) và bị đơn là bà NTH (kỹ thuật viên nha khoa, ngụ phường Tân Bình, TP.HCM). HĐXX tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn bồi thường tổng cộng 344 triệu đồng do làm răng sứ bị hư. Yêu cầu bồi thường 344 triệu đồng Theo nội dung đơn kiện, ngày 19-1-2023, bà N đến gặp bà H tại phòng khám trên đường Hoàng Hoa Thám, quận Tân Bình (cũ) để làm mới 24 răng sứ với số tiền 144 triệu đồng. Vài ngày sau khi làm dịch vụ, răng của bà N có hiện tượng ê buốt và đau nhức. Bà N nhận được lời trấn an từ bà H rằng: “Răng nướu không sao hết, đó chỉ là hiện tượng bình thường, chừng 2-3 tuần sẽ khỏi”. Ngày 17-2-2023, bà N trở về Mỹ và thấy răng có hiện tượng sưng tấy, chảy máu chân răng. Sau khi khám, bà N được chẩn đoán bị nhiễm trùng nặng. BV Răng Hàm Mặt TP.HCM đã kết luận răng của bà N bị nhiễm trùng nướu do bác sĩ làm răng sứ “mắc lỗi kỹ thuật trong quá trình trồng răng”. Bà N đến một trung tâm nha khoa khác để thăm khám và nhận được kết luận tương tự. Bà N đã nhiều lần liên hệ với bà H nhưng không được giải quyết. Ngày 10-4-2023, bà N đã làm bản tường trình gửi đến Sở Y tế TP.HCM nhờ can thiệp. Sở Y tế TP.HCM có quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà H và hướng dẫn bà N khởi kiện nếu hòa giải không thành. Bà N đã kiện bà H yêu cầu bồi thường tổng cộng 344 triệu đồng, gồm: Hoàn trả tiền làm răng sứ; chi phí điều trị, thăm khám khi răng sứ bị hư và chi phí đi lại từ Mỹ về Việt Nam cùng thiệt hại vật chất, tinh thần... Tại phiên tòa, đại diện bị đơn trình bày bà H làm nghề y nha khoa và có thời gian công tác tại khoa Răng hàm mặt của BV từ năm 1982 đến 2014. Bà H đã được Bộ Y tế cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh từ năm 2014 với phạm vi hoạt động chuyên môn là chuyên khoa phục hình răng. Sau khi nghỉ hưu, bà H làm thêm về nha khoa tại nhà. Thời gian ở Việt Nam sau khi làm răng sứ, bà N không có bất kỳ phản ánh nào về tình trạng răng. Khi về Mỹ, bà N thông báo tình trạng răng bị ê buốt và được bà H giải thích là triệu chứng nhất thời do răng chưa quen với chất sứ và keo. Khi nào bà N trở lại Việt Nam, bà H sẽ thăm khám miễn phí. Đến tháng 4-2023, bà N yêu cầu bà H hoàn trả chi phí làm răng vì bà H thao tác sai kỹ thuật. Bà H đề nghị được thăm khám vì cho rằng bà N điều trị tại nơi khác sẽ không đáng tin cậy và bà H sẽ không nắm được tình trạng răng của bà N trước và sau khi điều trị tại nơi khác. Đến ngày 31-5-2023, bà H bị Sở Y tế TP.HCM phạt vi phạm hành chính đối với hành vi khám chữa bệnh khi chưa có chứng chỉ hành nghề khám; cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động (80 triệu đồng), nộp lại số tiền thu lợi 120 triệu đồng chi phí bà N đã trả cho bà H và không được phép hành nghề răng thẩm mỹ đến nay. Tháng 6-2023, bà N liên hệ lại và yêu cầu bồi thường số tiền 100 triệu đồng nhưng bà H từ chối; cho rằng mình bị xử phạt hành chính và đã bị thiệt hại rất nhiều. Bà H yêu cầu tòa không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N vì bà N không có cơ sở chứng minh hậu quả xảy ra thuộc trách nhiệm của bà. Không chứng minh được kỹ thuật viên mắc lỗi HĐXX nhận định bà N không chứng minh được việc bị nhiễm trùng nướu là do phòng khám bà H gây ra hay không. Theo trình bày của nguyên đơn và bị đơn, có việc bà N làm răng sứ tại phòng khám của bà H, sau đó bà N bị viêm nướu và đi khám tại các cơ sở khám chữa bệnh ở Mỹ và Việt Nam. Quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã nhiều lần yêu cầu phía nguyên đơn cung cấp tài liệu bệnh án của các cơ sở y tế trong và ngoài nước, chứng từ chứng minh chi phí đi lại; kết luận của các cơ sở y tế đã khám về việc bà N bị nhiễm trùng nướu do bác sĩ làm răng sứ đã mắc lỗi kỹ thuật... Tuy nhiên, nguyên đơn không cung cấp các tài liệu trên mà chỉ cung cấp giấy khám bệnh tại trung tâm nha khoa. Việc bà N điều trị răng tại Mỹ chỉ được trình bày qua các bản tự khai mà không có các tài liệu, chứng cứ nào hợp lệ thể hiện việc bà N bị thiệt hại do lỗi của bà H. Các chứng cứ bổ sung chưa được hợp pháp hóa lãnh sự nên cũng không được xem là chứng cứ hợp pháp. Bên cạnh đó, Thanh tra Sở Y tế TP.HCM đã xử phạt bà H do khám bệnh, chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động; chưa được cấp chứng chỉ hành nghề... nên không có hồ sơ bệnh án để làm căn cứ xác định hành vi trồng răng sứ của bà H có hay không việc mắc lỗi kỹ thuật. Tòa sơ thẩm xét thấy không có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định bà H có hay không việc mắc lỗi kỹ thuật khi trồng răng sứ cho bà N và bà N không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Bà N chưa thực hiện việc giám định y khoa. Do đó, không có căn cứ xác định bà N bị nhiễm trùng nướu là do lỗi kỹ thuật của bà H khi trồng răng sứ cho bà N. HĐXX xét thấy đã giải thích việc bổ sung thêm chứng cứ, hợp pháp hóa các giấy tờ nhưng nguyên đơn không cung cấp được và không có chứng cứ nào khác. Do đó, không có đủ căn cứ xác định thiệt hại có phải do lỗi của bà H gây ra hay không và không đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N.• Theo HĐXX, không có đủ căn cứ xác định thiệt hại có phải do lỗi của bà H gây ra hay không và không đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N. Các bị cáo trong vụ cưỡng đoạt tài sản “núp bóng” Công ty Luật TNHH Pháp Việt. Ảnh: HD Tuyên án phúc thẩm vụ “núp bóng” Công ty Luật TNHH Pháp Việt đòi nợ thuê phapluat@phapluattp.vn Việt kiều Mỹ kiện kỹ thuật viên nha khoa vì... làm răng sứ bị hư Sau khi làm răng sứ và bị nhiễm trùng, một Việt kiều Mỹ đã khởi kiện đòi kỹ thuật viên nha khoa bồi thường 344 triệu đồng.
RkJQdWJsaXNoZXIy Mjg2ODExMg==