7 Pháp luật & cuộc sống - Thứ Năm 14-8-2025 phapluat@phapluattp.vn Luật sư NGUYỄN MINH TÂM Nghị quyết 66-NQ/TW đã xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột phá”, để đạt được điều này, cần bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, vì tư duy là nguồn gốc của mọi hành động. Đối với hoạt động tư pháp hình sự, trọng tâm của việc đổi mới tư duy là nguyên tắc suy đoán vô tội. Vì sao phải đổi mới tư duy? Quan hệ pháp luật hình sự là mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với bị can, bị cáo - những người luôn ở vị thế yếu thế, dễ bị lạm quyền. Để bảo vệ các đối tượng này, BLTTHS đã quy định 27 nguyên tắc cơ bản, trong đó suy đoán vô tội (Điều 13) là một nguyên tắc quan trọng. Nguyên tắc này được hiến định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật”. V ề bản chất, nguyên tắc này xác lập nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội và có quyền im lặng nếu lời khai không đúng sự thật. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nguyên tắc này chưa được nhận thức và thực hiện đầy đủ. Những người tiến hành tố tụng đôi khi bị chi phối bởi tư duy suy đoán có tội và tập trung chứng minh tội phạm thay vì xác định sự thật khách quan. Nền tảng để đổi mới tư duy về nguyên tắc suy đoán vô tội Để đổi mới tư duy, phải coi pháp luật là nền tảng bảo vệ quyền con người, không chỉ là công cụ điều chỉnh xã hội. Chuyển từ quan niệm pháp luật hình sự là công cụ trừng phạt sang bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Việc trừng phạt chỉ có ý nghĩa khi công lý đã được bảo vệ. Bên cạnh đó, cần tiếp thu các công ước quốc tế và án lệ tiến bộ, đáp ứng yêu cầu hội nhập và bảo vệ quyền con người. Từ những nền tảng này, việc đổi mới tư duy được thể hiện qua các biểu hiện: Chuyển nhận thức các cơ quan tư pháp từ “công cụ quản lý” sang “cơ quan thực hiện dịch vụ công lý”, nơi bảo vệ công lý và phục vụ công Đảm bảo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và gỡ tội Chuyển từ quan niệm pháp luật hình sự là công cụ trừng phạt sang bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. lập các cơ chế pháp luật Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực tư nhân. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để ngăn chặn quyền lực bị sử dụng sai mục đích. Hiện nay theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, chủ thể khởi kiện phải có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trực tiếp. Quy định này tuy phù hợp với nguyên tắc “cá nhân hóa quyền và lợi ích” trong tố tụng truyền thống nhưng lại bỏ ngỏ các trường hợp cần khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng - chẳng hạn như ô nhiễm môi trường, xây dựng trái phép, xâm phạm di tích văn hóa. Trong những trường hợp này, thiệt hại không thuộc về một cá nhân cụ thể nên người dân riêng lẻ khó có đủ cơ sở để chứng minh “quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm” nhằm thỏa mãn điều kiện khởi kiện. Điều này tạo ra khoảng trống pháp lý trong việc bảo vệ các giá trị chung của cộng đồng, các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật của cơ quan thực thi pháp luật cũng vì vậy không bị xử lý kịp thời. Chính vì vậy, để hoàn thiện pháp luật theo tinh thần của Nghị quyết 66 cần nghiên cứu mở rộng quyền được khởi kiện của các tổ chức nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng. Thiết lập cơ chế tự kiểm soát và kiểm soát lẫn nhau Kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng và lãng phí có vai trò quan trọng, tạo thành một hệ thống chặt chẽ nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của việc thi hành pháp luật. Trong một nhà nước pháp quyền, quyền lực không thể được trao một cách tuyệt đối mà cần được giới hạn và kiểm soát chặt chẽ bằng pháp luật. Con người không phải là thánh thần, do đó quyền lực luôn tiềm ẩn nguy cơ bị lạm dụng, chuyển hóa thành công cụ phục vụ lợi ích cá nhân hoặc nhóm. Vì vậy, việc thiết lập cơ chế tự kiểm soát và kiểm soát lẫn nhau hiệu quả là cần thiết để ngăn ngừa sự tha hóa, lạm quyền, vốn là nguyên nhân làm suy yếu pháp luật và xói mòn niềm tin xã hội. Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn nhất dẫn đến sự tha hóa quyền lực, làm suy yếu toàn diện việc thi hành pháp luật. Khi quyền lực bị dùng để trục lợi cá nhân, các nguyên tắc bình đẳng, minh bạch và công bằng sẽ bị phá vỡ, làm sụp đổ niềm tin của người dân vào hệ thống pháp lý. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực tư nhân, yêu cầu công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để ngăn chặn quyền lực bị sử dụng sai mục đích. Thực tế cho thấy nhiều vụ án tham nhũng lớn đã gây thiệt hại nặng nề, làm biến dạng quy trình pháp lý. Do đó phòng, chống tham nhũng không chỉ là biện pháp răn đe mà còn là hàng rào bảo vệ sự liêm chính của hệ thống pháp luật. Nếu tham nhũng là hành vi cố ý trục lợi thì lãng phí là hệ quả của sự yếu kém trong quản trị và thiếu trách nhiệm giải trình. Vì vậy, kiểm soát và phòng ngừa lãng phí trong thi hành pháp luật không chỉ là giải pháp hành chính mà còn là yêu cầu chính trị - pháp lý để đảm bảo tính hiệu quả, liêm chính và tiết kiệm trong quản trị nhà nước. K iểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng và lãng phí là một hệ thống kiểm soát dân. Đề cao tố tụng tranh tụng, đảm bảo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và gỡ tội. Phiên tòa phải là một cuộc điều tra công khai. Bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình; thay thế cơ chế xử lý nội bộ khép kín bằng cơ chế giải trình rõ ràng. Việc vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội có thể dẫn đến oan sai, mà một trong những nguyên nhân chính là bức cung, nhục hình. Bức cung, nhục hình là những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động điều tra. Thực tế, lời khai của bị can không phải là chứng cứ duy nhất để kết tội. Lời khai đó chỉ có giá trị khi phù hợp với các chứng cứ khác. Luật sư tham gia gác cửa công lý, cân bằng tố tụng Đổi mới tư duy trong hoạt động tư pháp hình sự là yêu cầu cấp thiết để thực hiện tinh thần Nghị quyết 66. Trong quá trình này, luật sư (LS) đóng vai trò người gác cửa công lý, đảm bảo sự cân bằng quyền lực. Việc tôn trọng và nâng cao vị thế của LS là điều kiện để củng cố niềm tin của nhân dân vào nền tư pháp, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hoạt động tư pháp hình sự gắn liền với quyền tự do, tính mạng, danh dự của công dân. Sự tham gia của LS ngay từ giai đoạn điều tra giúp bị can, bị cáo biết các quyền của mình. Báo cáo của Bộ Công an năm 2023 cho thấy các vụ án có LS tham gia từ giai đoạn điều tra, tỉ lệ khiếu nại về vi phạm tố tụng giảm hơn 20%. Hiện diện của LS trong tiến trình giải quyết các vụ án như một sự giám sát hoạt động tố tụng. LS góp phần quan trọng trong việc hạn chế oan sai. Vụ án Nguyễn Thanh Chấn là một minh chứng điển hình khi LS đã kiên trì điều tra, thu thập chứng cứ mới, giúp giải oan cho thân chủ. Nâng cao vai trò của LS cũng là cách để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng hình sự. Muốn vậy, cần quy định LS được tiếp cận hồ sơ ngay sau khi khởi tố bị can. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem LS là đối tác bình đẳng, cùng mục đích tìm ra sự thật khách quan. Ngoài ra, cần ứng dụng công nghệ sâu rộng, hiện đại để quản lý hồ sơ điện tử, cho phép LS tra cứu trực tuyến để dễ dàng tham gia tố tụng.• thống nhất, có tính ràng buộc lẫn nhau. Kiểm soát quyền lực là tiền đề để ngăn ngừa lạm dụng, còn phòng, chống tham nhũng và lãng phí là nội dung cốt lõi để bảo vệ tính liêm chính và hiệu quả của hệ thống pháp luật.• (*) ThS Trương Thị Tú Mỹ hiện là giảng viên ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM Tiêu điểm Luật hóa nghĩa vụ tiếp nhận, phân tích và phản hồi ý kiến người dân Phản hồi của người dân là quyền hiến định về giám sát quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn cơ chế phản hồi dừng lại ở các cuộc khảo sát hình thức hoặc các kênh góp ý không có giá trị pháp lý ràng buộc. Do đó, cần luật hóa nghĩa vụ tiếp nhận, phân tích và phản hồi ý kiến người dân đối với hoạt động thi hành pháp luật - đặc biệt trong các lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp như đất đai, xây dựng, tư pháp, hành chính. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 đã quy định nghĩa vụ lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động nhưng chủ yếu mới áp dụng trong quá trình xây dựng luật. Cần mở rộng nghĩa vụ này sang cả giai đoạn tổ chức thực thi sẽ tạo nên một vòng phản hồi khép kín, đảm bảo pháp luật không bị “đóng băng” trong thi hành. Bên cạnh những cơ hội, việc ứng dụng công nghệ cũng đặt ra nhiều thách thức lớn, bao gồm cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, đội ngũ cán bộ tư pháp thiếu kỹ năng công nghệ và thiếu hành lang pháp lý cụ thể cho việc sử dụng AI. Từ đó, tôi đề nghị ngành tư pháp cần có lộ trình rõ ràng như: Tăng đầu tư vào hạ tầng công nghệ cho các cơ quan tư pháp; đào tạo kỹ năng công nghệ số, đồng thời xây dựng chuẩn mực đạo đức và chuyên môn nghề nghiệp cho cán bộ tư pháp thông qua công cụ chuẩn hóa số; tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh hoạt động của các công cụ công nghệ, đảm bảo tính công khai, minh bạch, bảo mật dữ liệu và trách nhiệm pháp lý. Việc triển khai thành công những giải pháp này sẽ giúp ngành tư pháp Việt Nam phát triển mạnh mẽ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 66-NQ/TW và góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp toàn diện. TS-LS NGUYỄN THỊ KIM VINH Đổi mới tư duy trong hoạt động tư pháp hình sự, đặc biệt là về nguyên tắc suy đoán vô tội, là yêu cầu cấp thiết để thực hiện tinh thần Nghị quyết 66. Ảnh: TRẦN LINH
RkJQdWJsaXNoZXIy Mjg2ODExMg==