193-2021 - page 7

7
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứTư25-8-2021
Viện trưởng VKSND Tối cao vừa ra quyết định ban
hành quy định về quy trình kiểm sát bản án, quyết định
giải quyết vụ án hành chính của tòa án.
Theo đó, khi nhận được bản án, quyết định giải quyết
vụ án hành chính do tòa án chuyển đến, trường hợp VKS
tham gia phiên tòa, công chức kiểm sát thời hạn gửi, thời
hạn ban hành, căn cứ, thẩm quyền ban hành, nội dung,
hình thức của bản án, quyết định thu thập tài liệu, chứng
cứ để bảo đảm cho việc kháng nghị (nếu cần thiết).
Trường hợp phát hiện bản án, quyết định có vi phạm thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, công chức báo cáo
bằng văn bản với lãnh đạo VKS để xem xét kháng nghị,
kiến nghị theo thẩm quyền.
Đối với vi phạm ít nghiêm trọng, công chức đề xuất
lãnh đạo VKS thực hiện quyền kiến nghị tòa án khắc phục
vi phạm đối với vụ án cụ thể hoặc tổng hợp vi phạm để
ban hành kiến nghị chung.
Đối với vi phạm nghiêm trọng, công chức đề xuất lãnh
đạo VKS thực hiện quyền kháng nghị như sau:
Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng mà còn trong thời
hạn kháng nghị của VKS cùng cấp thì công chức kịp thời
báo cáo lãnh đạo viện xem xét kháng nghị phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật có vi phạm nghiêm trọng mà đã hết thời hạn kháng
nghị của VKS cùng cấp thì công chức đề xuất viện trưởng
VKS cấp của mình kịp thời báo cáo lãnh đạo VKS cấp trên
trực tiếp xem xét kháng nghị phúc thẩm theo thẩm quyền.
Trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
mà phát hiện có căn cứ kháng nghị thì công chức đề xuất
với lãnh đạo VKS cấp của mình kịp thời thông báo cho
viện trưởng VKS cấp có thẩm quyền xem xét kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trường hợp phát hiện dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm
quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND Tối cao thì
VKS đã phát hiện phải thông báo ngay cho Cơ quan điều
tra VKSND Tối cao xem xét, giải quyết theo quy định của
pháp luật…
Trường hợp VKS không tham gia phiên tòa, công chức
thực hiện các bước theo quy trình chung nhưng có thể yêu
cầu tòa án chuyển hồ sơ vụ án để kiểm sát, xem xét việc
kháng nghị nếu thấy cần thiết.
D.DUNG
Nguyên đơn đã lựa chọn quyền dân sự
để khởi kiện
Tại tòa phúc thẩm, đại diện VKS đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa, thu
thập thêm chứng cứ tại công an huyện để xác định vụ án có được cơ
quan công an huyện thụ lý và đã giải quyết tin báo tội phạm chưa mới
đủ cơ sở giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, HĐXX cho rằng tại phiên tòa phúc thẩm, ông T xác định
ông không có đơn yêu cầu công an huyện giải quyết khi xảy ra vụ cháy.
Ông đã báo cho công an xã và công an huyện đến lập biên bản hiện
trường nhưng sau đó không giải quyết và giao cho ông hồ sơ biên bản
hiện trường, đồng thời đề nghị ông nếu có tranh chấp thì khởi kiện tại
tòa án nên ông đã khởi kiện.
Do đó, ông T đã lựa chọn quyền dân sự để khởi kiện ông Th, yêu cầu
ông Th bồi thường thiệt hại do ông Th không làm ranh chống cháy nên
đã để lửa cháy lan sang vườn cây cao su, gây thiệt hại cho ông, không
yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự.
Mặt khác, công an huyện đã giao hồ sơ hiện trường cho ông T để làm
chứng cứ khởi kiện. Vì vậy, đề nghị của VKS là không cần thiết.
ViệnTối cao banhànhquyđịnhkiểmsát bảnánhành chính
do hành vi trái pháp luật của ông
Th gây ra.
Việc xác định lửa bùng phát từ lá
mía khô trên rẫy của ông Th cũng
chỉ là suy đoán vì khi lửa phát
cháy, không có người ở tại hiện
trường chứng kiến. Nếu nguyên
nhân là do sự kiện bất khả kháng
thì người gây thiệt hại không phải
chịu trách nhiệm bồi thường (theo
khoản 2 Điều 584 BLDS).
Cũng theo tòa phúc thẩm, pháp
luật không quy định bắt buộc
người trồng mía, người trồng cao
su phải thực hiện việc phòng cháy
trong quá trình sản xuất, thu hoạch.
Việc phòng cháy là do ý thức của
các chủ thể nhằm bảo vệ tài sản
của mình, tránh gây thiệt hại cho
người khác. Đây không phải là quy
định bắt buộc nên không thể coi
hành vi không phòng chống cháy
lá mía khô của ông Th là hành vi
trái pháp luật được.
Do không có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại xảy ra nên không có căn
cứ để buộc ông Th phải bồi thường
thiệt hại cho ông T. Từ đó, tòa phúc
thẩm chấp nhận kháng cáo của bị
đơn, sửa bản án sơ thẩm, không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.•
NHẪNNAM
T
AND tỉnh Tây Ninh vừa đưa
ra xét xử phúc thẩm vụ tranh
chấp bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do tài sản bị xâm phạm
(126 cây cao su bị chết cháy) giữa
nguyên đơn là ông T và bị đơn là
ông Th do có kháng cáo của bị đơn.
Đòi bồi thường 126 cây
cao su bị chết cháy
Theo hồ sơ, ông T khai ông có
1,6 ha cây cao su hơn bảy năm
tuổi, giáp đất nơi ông Th thuê để
trồng mía. Trưa 16-1-2020, ông T
nghe tin vườn cao su của ông bị
cháy nên cùng một số người đến
dập lửa. Sau khi dập tắt lửa, ông
đã báo cho công an xã, công an
huyện đến lập biên bản hiện trường.
Ông T cho rằng lửa xuất phát từ
đám mía của ông Th cháy lan sang
vườn cao su của ông, làm cho 126
cây cao su bị cháy, cây chết không
khai thác được.
Từ đó, ông T khởi kiện yêu cầu
ông Th bồi thường thiệt hại mỗi
cây cao su là 300.000 đồng, tổng
126 cây là 37,8 triệu đồng.
Ông Th trình bày ông thuê đất
của người khác cuối năm 2016 để
trồng mía, đến hết năm 2019 là
hết hợp đồng, phần đất thuê liền
kề với đất cao su của ông T. Sáng
16-1-2020, ông cùng với năm công
nhân đến thu hoạch hết số mía còn
lại và đưa lên xe máy cày. Sau đó,
ông cùng nhóm công nhân rời khỏi
rẫy mía, ông lái máy cày sang nhà
máy đường.
Sáng 17-1-2020, ông mới biết rẫy
mía của mình bị cháy và cháy lan
qua vườn cao su của ông T. Ông
không đốt rẫy mía nên việc vườn
cao su của ông T bị cháy không liên
quan đến ông. Vì vậy, ông không
đồng ý bồi thường cho ông T.
Người chủ đất cho ông Th thuê
xác định lời trình bày của ông Th
đúng, còn nguyên nhân vụ cháy ông
cũng không biết. Khoảng 10 giờ
ngày 17-1-2020, ông Th gọi điện
thoại báo cho ông trả đất nhưng
ông cũng chưa vào rẫy nhận đất.
Việc rẫy mía và vườn cao su cháy
không liên quan đến ông. Đối với
yêu cầu bồi thường của ông T thì
ông không có ý kiến.
Xử sơ thẩm, TAND huyện Tân
Biên chấp nhận một phần yêu cầu
của ông T, buộc ông Th phải bồi
thường cho ông T hơn 12,2 triệu
đồng.
Sau đó, ông Th kháng cáo yêu
cầu hủy án sơ thẩm vì án sơ thẩm
không đưa vợ ông vào với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Tòa phúc thẩm
bác yêu cầu khởi kiện
Theo tòa phúc thẩm, cấp sơ thẩm
xác định rẫy cao su bị cháy là do
mía khô không được dọn sạch,
chống cháy nên khi mía bị cháy
đã làm cháy lan sang rẫy cao su.
Về nguyên nhân vì sao mía khô
trên rẫy của ông Th bị cháy thì
không xác định được. Tuy nhiên,
tòa sơ thẩm căn cứ các điều 584,
585, 589 BLDS để buộc ông Th
phải bồi thường 50% thiệt hại cho
ông T, bằng số tiền hơn 12,2 triệu
đồng, trên cơ sở do lỗi của hai bên.
Cụ thể, sau khi thu hoạch mía,
ông Th đã không chủ động phát
dọn tạo ranh cản lửa, thu dọn các
vật liệu dễ cháy tạo khoảng cách
an toàn đối với phần đất liền kề để
phòng cháy. Phía ông T trong quá
trình canh tác không thực hiện các
biện pháp phòng cháy theo phong
tục địa phương về việc tự bảo vệ
tài sản của mình như dọn cành khô,
quét, thổi lá khô, cày ranh chống
cháy, dẫn đến lửa cháy lan làm thiệt
hại đến tài sản của mình.
Trích dẫn quy định tại Điều 584
BLDS, tòa phúc thẩm cho rằng
HĐXX cho rằng không
có căn cứ xác định hành
vi gây cháy cây cao su do
bị đơn gây ra, không thể
coi hành vi không phòng
chống cháy lá mía khô
của bị đơn là hành vi
trái pháp luật nên không
có căn cứ buộc bị đơn
phải bồi thường.
Kiện chủ vườn mía
đòi bồi thường 126 cây cao su
Cho rằng đám cháy tại vườnmía của bị đơn lan sang vườn cao su củamình làm chết 126 cây cao su
nên nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu bồi thường 37,8 triệu đồng nhưng tòa phúc thẩmbác yêu cầu này.
trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi
có các điều kiện: Có thiệt hại xảy
ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi
trái pháp luật, có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại xảy ra.
Theo tòa phúc thẩm, trong vụ án
này, thiệt hại 126 cây cao su trị giá
hơn 24,5 triệu đồng của ông T là
có thật nhưng không có hành vi
gây thiệt hại là hành vi trái pháp
luật của ông Th đối với thiệt hại
của ông T…
Cụ thể, trong vụ án này, lời khai
của ông T, người làm chứng, kể
cả xác định của công an thì chưa
có căn cứ nào xác định hành vi
gây cháy cây cao su của ông T là
1,2,3,4,5,6 8,9,10,11,12,13,14,15,16
Powered by FlippingBook