279-2022 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứHai5-12-2022
Tiêu điểm
Đâu phải cứ mâu thuẫn trầm trọng
là phải ồn ào cho cả xóm biết
Tình huống này khá phổ biến trong những vụ án ly hôn. Khi một bên
vẫn khăng khăng mình đang hạnh phúc, bên còn lại thì cho rằng mâu
thuẫn đã thật sự trầm trọng đến mức cuộc sống chung không thể kéo
dài thì tòa sẽ yêu cầu xác minh của tổ dân phố, UBND phường để xem có
cãi vã, đánh nhau gì không. Tuy nhiên, chỉ người trong cuộc mới biết tình
trạng của họ thế nào.
Trongmột vụ án ly hôn, một khách hàng của tôi đã nói với tòa rằngmâu
thuẫn của họ đã thực sự trầm trọng. Là người trong cuộc nên họ cảmnhận
rõ ràng nhất. Họ không cãi nhau, không đánh đập nhưng không có nghĩa
là họ êmấm. Chính họmới biếtmức độmâu thuẫn trong hôn nhân của họ.
Ngày nay chúng ta gần như đã có cách hành xử thay đổi hơn trongmâu
thuẫn vợ chồng. Không hẳn vụ nào “cơm không lành, canh không ngọt”
cũng cãi vã, ồn ào đánh đập cho cả xóm biết, hay phải báo lên phường.
Họ thường cố gắng xử lý cùng nhau trong nhà, đôi khi còn không nói với
nhau lời nào. Và từ đó cuộc sống chung không còn hạnh phúc, không thể
hàn gắn; mục đích hôn nhân đã không đạt được. Vậy tại sao lại không cho
họ (hoặc một người trong số họ) được ly hôn?
Luật sư
ĐINH THỊ QUỲNH NHƯ
, Đoàn Luật sư TP.HCM
Tòakhôngcho
lyhônvì phường
nói không
mâu thuẫn
HĐXX phúc thẩm căn cứ vào văn bản
UBNDphường xác minh rằng “vợ chồng
khôngmâu thuẫn, quan hệ gia đình không có gì
đáng lưu ý” để bác đơn ly hôn của người chồng.
YẾNCHÂU
L
ẽ thường, cuộc sống vợ chồng có
ấm êm hay không, có mâu thuẫn
trầm trọng hay không thì chỉ vợ
chồng đó tường tận nhất.
Tuy nhiên, trong câu chuyện dưới
đây, tòa lại căncứvàovănbảnphường
xác minh rằng “vợ chồng không
mâu thuẫn” để bác đơn ly hôn của
người chồng.
Sơ thẩm: Chuyện nhà ai
nấy biết, cho ly hôn vì
mâu thuẫn trầm trọng
Năm2004, ôngTvà bà H đăng ký
kết hôn tạiUBNDphườngNguyễnCư
Trinh, quận 1, TP.HCM. Năm 2019,
ông T khởi kiện yêu cầu được ly hôn
với bà H. Họ có một con chung đã
trưởng thành.
Theo ôngT, ông bà tính tình không
hợp, quan điểm sống khác biệt nên
vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, không
quan tâm lẫn nhau. Ông ra ngoài sinh
sống từ năm 2017.
Bà H thì cho rằng vợ chồng không
có mâu thuẫn gì trầm trọng. Ông T
bỏ nhà đi và có người khác nhưng
bà vẫn chấp nhận vì con. Bà không
đồng ý ly hôn vì còn thương yêu.
Sau khi thụ lý, TAND quận 1 đã
hòa giải để họ hàn gắn nhưng bà H
vắng mặt nhiều lần, còn ông T vẫn
giữ nguyên yêu cầu ly hôn.
Xử sơ thẩm hồi tháng 4-2022, tòa
nhận định rằng bà H cho rằng ông T
có người phụ nữ khác nhưng không
“Chỉ chúng tôi mới biết
chúng tôi có hạnh phúc
hay không. Thế nhưng
tòa lại căn cứ văn bản của
phường để cho rằng chúng
tôi khôngmâu thuẫn để
bác đơn ly hôn của tôi.”
Ông
T
, người yêu cầu ly hôn
Điều kiện để được tòa
cho ly hôn
Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và
Gia đình 2014 quy định khi vợ hoặc
chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại
tòa án không thành thì tòa án giải
quyết cho ly hônnếu có căn cứ về việc
vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình
hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng,
đờisốngchungkhôngthểkéodài,mục
đích của hôn nhân không đạt được.
Theo điểm a.1 Mục 8 Nghị quyết
02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000
củaHội đồngThẩmphánTANDTối cao
(hướng dẫn áp dụngmột số quy định
của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000)
thì tình trạng của vợ chồng được coi
là trầm trọng khi: Vợ, chồng không
thương yêu, chung thủy, quý trọng,
chămsóc,giúpđỡnhau,thườngxuyên
đánh đập, ngược đãi, hành hạ và có
quan hệ ngoại tình... đã được bà con
thân thíchhoặc cơquan, tổchức, nhắc
nhở, khuyên bảo, hòa giải nhiều lần.
xuất trình được tài liệu, chứng cứ
nào và cũng không đưa ra giải pháp
cải thiện tình trạng hôn nhân để vợ
chồng quay lại cùng chung sống, xây
dựng gia đình hạnh phúc.
Tuy văn bản ngày 5-2-2020 của
UBNDphườngNguyễn CưTrinh thể
hiện trong thời gianôngbàchungsống
tại địa phương, không có mâu thuẫn
gì gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự,
quan hệ gia đình và xã hội không có
gì đáng lưu ý nhưng trên thực tế ông
bà cùng thừa nhận đã ly thân từ năm
2017.Dođó,mâu thuẫnkhông thểhàn
gắn, tình cảmvợ chồng đã trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích hôn nhân không đạt được.
Nếu kéo dài tình trạng hôn nhân này
sẽ đau khổ cho cả hai.
Từnhữngnhậnđịnhtrên,HĐXXquyết
địnhchoôngbàlyhôn.BàHkhángcáo
yêu cầu hủy án sơ thẩmđể xét xử lại.
Phúc thẩm: Không ly hôn
vì không mâu thuẫn
trầm trọng
Tháng 10-2022, TAND TP.HCM
xử phúc thẩm đã không chấp nhận
yêu cầu ly hôn của ông T. HĐXX
phúc thẩmnhận định căn cứ điểma.1
Mục8Nghịquyết02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23-12-2000 của Hội đồng thẩm
phán TAND Tối cao (hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật Hôn
nhân và Gia đình 2000) thì tình trạng
của vợ chồng được coi là trầm trọng
khi vợ, chồng thường xuyên đánh
đập, ngược đãi, hành hạ và có quan
hệ ngoại tình...
HĐXX phúc thẩm cho rằng theo
văn bản xác minh ngày 5-2-2020 của
UBNDphườngNguyễnCưTrinh(như
nêu trên) thì tình trạng hôn nhân giữa
ông T và bà H chưa đến mức trầm
trọng. Vợ chồng vẫn có thể tiếp tục
duy trì đời sống chung, lý do xin ly
hôn của ông T là không chính đáng.
TheoHĐXXphúcthẩm,cấpsơthẩm
nhậnđịnhôngbà đã sống ly thân,mâu
thuẫntrầmtrọng,đờisốngchungkhông
thể kéo dài, mục đích hôn nhân không
đạtđược,từđóchấpnhậnyêucầulyhôn
của ông T là chưa đúng với tinh thần
hướng dẫn trên. Từ đó, HĐXX phúc
thẩm chấp nhận kháng cáo của bà H,
sửa một phần bản án sơ thẩm, không
chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông T.
Ông T không đồng tình với phán
quyết của tòa án cấp phúc thẩm. Ông
cho rằng chỉ có ôngmới biết hôn nhân
của ông có hạnh phúc hay không.
“Chúng tôi mâu thuẫn từ lâu nên ly
thân nhiều năm nay. Hôn nhân không
thểcứuvãn,tôimuốnlyhôn.Thếnhưng
không hiểu sao tòa lại căn cứ văn bản
của ủy ban phường để cho rằng chúng
tôi không có mâu thuẫn gì để bác đơn
ly hôn của tôi” - ông T nói.•
VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng vừa ra thông báo rút kinh
nghiệm về kiểm sát giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay
tài sản giữa nguyên đơn là bà THH, ông NBB và bị đơn là bà
PTN. Từ năm 2011 đến 2013, bà H cho bà N vay tiền 25 lần,
tổng cộng 3,13 tỉ đồng. Mỗi lần vay đều viết giấy ghi thời hạn
trả, lãi suất cho vay thỏa thuận bằng miệng. Riêng giấy vay
tiền ngày 12-10-2012 thỏa thuận mức lãi suất 1%. Theo bà H
thì bà N đã trả được hơn 1,3 tỉ đồng, còn nợ tiền gốc hơn 1,8 tỉ
đồng và tiền lãi.
Bà N thừa nhận 25 giấy vay tiền do bà H cung cấp là của bà
ký vay với lãi suất 12%-30%/tháng và đã trả cho bà H 31 lần,
tổng cộng gần 3,3 tỉ đồng. Như vậy, bà đã trả dư gần 154 triệu
đồng. Bà N cũng không đồng ý tính lãi của bà H và đề nghị áp
dụng hết thời hiệu tính lãi. Bà N có đơn phản tố đề nghị bà H
trả lại số tiền đã trả dư gần 154 triệu đồng và trả nợ 100 triệu
đồng mà bà H đã mượn của bà vào ngày 6-3-2013. Tổng cộng
là gần 254 triệu đồng.
Tháng 6-2021, TAND TPKon Tum (tỉnh Kon Tum) xử
sơ thẩm tuyên buộc bà N phải trả cho bà H hơn 1 tỉ đồng. Cả
nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo.
Tháng 12-2021, TAND tỉnh Kon Tum xử phúc thẩm, sửa bản
án sơ thẩm, tuyên buộc bà N trả cho bà H hơn 1,75 tỉ đồng. Đến
tháng 2-2022, TANDCấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng
nghị giám đốc thẩm của viện trưởngVKS cùng cấp, hủy bản án
phúc thẩm, giao hồ sơ cho TAND tỉnh Kon Tum xét xử phúc
thẩm lại.
TheoVKSNDCấp cao tại Đà Nẵng, tờ giấy trả nợ ghi ngày
14-4-2012 với số tiền 740,3 triệu đồng, bà N khai đã trả, còn bà
H cho rằng chưa nhận số tiền này. Tuy nhiên, giấy ngày
14-4-2012 do bà H ghi có nội dung: “Tháng 3+4, H đã nhận đủ
số lãi 740,3 triệu đồng”, ngoài ra còn ghi chữ “xong” và ký tên.
Tòa phúc thẩm nhận định bà N trả cho bà H 740,3 triệu
đồng tiền lãi nhưng do không rõ trả lãi cho khoản tiền gốc
nào nên không chấp nhận số tiền này của bà N là nhận định
và đánh giá chứng cứ không khách quan, toàn diện, làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà N.
Ngoài ra, các hợp đồng vay tài sản giữa hai bên được xác
lập trước ngày 1-1-2017 và đang thực hiện. Theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 2 và điểm a khoản 2 Điều 4 Nghị quyết
01/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao thì phải áp
dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết.
Tòa cần áp dụng Quyết định số 2868 ngày 29-11-2010 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về mức lãi suất cơ bản bằng
đồng Việt Nam là 9%/năm từ ngày vay đến khi kết thúc thời
hạn vay với số tiền gốc mà bị đơn vay là 3,13 tỉ đồng.
Trong khi đó, TAND tỉnh Kon Tum lại áp dụng Điều 468
Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 9 Nghị quyết 01/2019 của Hội
đồng thẩm phán TAND Tối cao để tính lãi suất 20% là không
đúng quy định, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bị đơn.
D.DUNG
Giámđốc thẩmhủy ánvì tòa cấpdưới tính lãi suất cho vay khôngđúng
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook