7
VKSND Tối cao giải
đáp vướngmắc về
thựchiệnLuậtĐấtđai
Khi các bên đã hòa giải không thành và khởi kiện
thì không nên đặt nặng những vấn đềmang tính
hình thức của việc hòa giải mà làmchậm
trễ việc giải quyết tranh chấp của các bên.
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Hai 16-9-2024
YẾNCHÂU
V
KSND Tối cao vừa ban
hành Văn bản 3854/
VKSTC-V9 giải đáp
vướng mắc về kiểm sát việc
giải quyết vụ, việc dân sự,
hôn nhân và gia đình. Theo
đó, VKSND Tối cao đã trả
lời một số vướng mắc về
việc thực hiện Luật Đất đai.
Trong thực tiễn giải quyết
án, VKSND tỉnh Lâm Đồng
hỏi: Muốn khởi kiện tranh
chấp quyền sử dụng đất
(QSDĐ) thì phải đáp ứng
điều kiện “đã qua hòa giải tại
UBND xã, phường, thị trấn
nơi có đất tranh chấp” theo
Điều 202 Luật Đất đai năm
2013. Tuy nhiên, thực tế có
trường hợp hòa giải không có
đủ thành phần theo quy định
của pháp luật.
Theo VKSND tỉnh Lâm
Đồng, hiện có hai quan điểm
về vấn đề này. Quan điểm thứ
nhất cho rằng việc hòa giải
thiếu thành phần hòa giải là
không đủ điều kiện khởi kiện
nên trả lại đơn khởi kiện cho
đương sự. Quan điểm thứ hai
cho rằng Điều 202 Luật Đất
đai và Nghị quyết 04/2017/
NQ-HĐTPngày 5-5-2017 của
Hội đồng Thẩm phán TAND
Tối cao chỉ quy định điều kiện
khởi kiện tranh chấp QSDĐ
là đã được hòa giải tại UBND
xã, phường, thị trấn nơi có
đất tranh chấp. Việc trả lại
đơn khởi kiện với lý do việc
hòa giải thiếu thành phần là
không đúng. Vậy quan điểm
nào đúng?
Trả lời, VKSND Tối cao
cho rằng khoản 2Điều 3Nghị
quyết 04/2017/NQ-HĐTP
ngày 5-5-2017 của Hội đồng
ThẩmphánTANDTối caoquy
định: Đối với tranh chấp ai
là người có QSDĐ mà chưa
được hòa giải tại UBND xã,
phường, thị trấn nơi có đất
tranh chấp theo Điều 202
Luật Đất đai năm 2013 thì
được xác định là chưa có đủ
điều kiện khởi kiện quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 192
BLTTDS năm 2015.
Theo khoản 1Điều 88Nghị
định 43/2014 ngày 15-5-2014
(được sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị định 01/2017 ngày 6-1-
2017 và Nghị định 148/2020
ngày 18-12-2020) thì khi nhận
được đơn yêu cầu giải quyết
tranh chấp đất đai, UBND
cấp xã có trách nhiệm thực
hiện nhiều nội dung.
Cụ thể, UBND cấp xã phải
thẩm tra, xác minh tìm hiểu
nguyên nhân phát sinh tranh
chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu
có liên quan do các bên cung
cấp về nguồn gốc đất, quá trình
sử dụng đất và hiện trạng sử
dụng đất. Đồng thời, thành
lập Hội đồng hòa giải tranh
chấp đất đai để thực hiện hòa
giải và tổ chức cuộc họp hòa
giải có sự tham gia của các
bên tranh chấp, thành viên
Hội đồng hòa giải tranh chấp
đất đai và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Việc hòa
giải chỉ được tiến hành khi
các bên tranh chấp đều có
mặt. Trường hợp một trong
các bên tranh chấp vắng mặt
đến lần thứ hai thì được coi
là việc hòa giải không thành.
TheoVKSNDTối cao, hiện
pháp luật không quy định nếu
Hội đồng hòa giải tranh chấp
đất đai không đủ thành phần
thì cuộc họp hòa giải không
được tiến hành hay việc hòa
giải không có hiệu lực. Hội
đồng hòa giải tranh chấp đất
đai không đưa ra quyết định,
không biểu quyết theo đa số.
Hơn nữa, hội đồng có thành
phần rất linh hoạt như đại
diện của một số hộ dân sinh
sống lâu đời tại xã, phường,
thị trấn biết rõ về nguồn gốc
và quá trình sử dụng đối với
thửa đất. Do đó, có một số
thành phần hội đồng không
mang tính bắt buộc.
VKSND Tối cao cho rằng
đối với tranh chấp đất đai cần
qua thủ tục hòa giải tại UBND
cấp xã nơi có đất tranh chấp
vì đây thuộc loại tranh chấp
về quyền sở hữu (quyền sử
dụng đất thuộc về ai). Vì vậy,
vai trò của cơ quan quản lý
nhà nước về đất đai tại nơi
có đất là rất quan trọng (là
nơi quản lý hồ sơ, tài liệu
về nguồn gốc đất, nắm được
quá trình sử dụng đất, những
người sử dụng đất, việc thực
hiện nghĩa vụ tài chính về
đất, thời điểm phát sinh tranh
chấp...). Đây là cơ sở để tòa
án có được thông tin để giải
quyết đúng đắn vụ án.
Do đó, khi các bên đã hòa
giải không thành và khởi kiện
thì không nên đặt nặng những
vấn đề mang tính hình thức
của việc hòa giải mà làmchậm
trễ việc giải quyết tranh chấp
của các bên. Vì vậy, VKSND
Tối cao cho rằng quan điểm
thứ hai là hợp lý…•
VKSNDTối cao cho rằng đối với tranh chấp đất đai cần qua thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã
nơi có đất tranh chấp vì đây thuộc loại tranh chấp về quyền sở hữu. Ảnh: YC
Hiện pháp luật
không quy định nếu
Hội đồng hòa giải
tranh chấp đất đai
không đủ thành
phần thì cuộc họp
hòa giải không được
tiến hành hay việc
hòa giải không có
hiệu lực.
Luật và đời
Côngbố saokê tiền từ thiệnđể
minhbạchchứkhôngđể“checkVAR”
Tối 12-9, Ủy ban Trung ương MTTQ
Việt Nam bước đầu đã công khai sao kê
số tiền các tài khoản ủng hộ từ thiện tại
Vietcombank từ ngày 1 đến 10-9 lên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Sau khi công bố 12.028 trang sao kê
đã tiếp nhận từ tài khoản Vietcombank,
chiều 13-9, MTTQ Việt Nam tiếp tục
đăng tải 2.009 trang sao kê tiền ủng hộ
thông qua tài khoản VietinBank từ ngày
10 đến 12-9.
Việc minh bạch hóa các khoản tiếp
nhận của Ủy ban Trung ương MTTQ
Việt Nam bằng hình thức sao kê là
chưa có tiền lệ. Đối với việc tiếp nhận
từ thiện, phương thức này tuy không
mới nhưng lại đáp ứng được nguyện
vọng của nhiều người. Quan trọng
hơn, sao kê đã đánh tan những hoài
nghi, ngờ vực về việc “bớt xén”, “xà
xẻo” các khoản thu trong hoạt động
quyên góp, ủng hộ mà bấy lâu nay vẫn
âm ỉ ngoài xã hội. Việc sao kê cũng
góp phần định vị mức độ uy tín của
các tổ chức, cá nhân vận động, tiếp
nhận các nguồn đóng góp tự nguyện,
đồng thời giải tỏa được “nỗi lòng” của
những chủ thể này để họ yên tâm thực
hiện nhiệm vụ cao cả.
Dưới góc độ pháp lý, Điều 14 Nghị
định 93/2021 quy định các tổ chức
vận động, tiếp nhận, phân phối và sử
dụng nguồn đóng góp tự nguyện có
trách nhiệm công khai đầy đủ, kịp thời,
chính xác các hoạt động có liên quan
đến việc vận động, tiếp nhận, phân
phối và sử dụng nguồn đóng góp tự
nguyện. Theo đó, các hình thức công
khai bao gồm: a) Công khai trên trang
thông tin điện tử chính thức của tổ
chức, cơ quan, đơn vị; b) niêm yết tại
trụ sở làm việc của tổ chức, cơ quan,
đơn vị và địa điểm sinh hoạt cộng đồng
(thôn, ấp, bản, buôn, sóc, tổ dân phố);
c) thông báo bằng văn bản đến các cơ
quan có liên quan tham gia vào quá
trình vận động, tiếp nhận, phân phối
và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện
để khắc phục khó khăn do thiên tai;
thông báo trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
Tổ chức tiếp nhận các nguồn đóng
góp tự nguyện phải thực hiện ít nhất
một trong ba hình thức công khai nêu
trên, trong đó phải thực hiện hình thức
bắt buộc là công khai trên trang thông
tin điện tử chính thức của tổ chức, cơ
quan, đơn vị (trừ trường hợp chưa có
trang thông tin điện tử).
Như vậy, việc Ủy ban Trung ương
MTTQ Việt Nam công khai các khoản
tiếp nhận đóng góp không chỉ phù hợp
với quy định của pháp luật mà còn đáp
ứng sự mong đợi của nhiều người.
Bên cạnh sự đồng tình của nhiều
người thì cũng có vài ý kiến băn khoăn,
rằng việc công khai như thế có thể
khiến số ít người chạnh lòng vì con số
đóng góp khiêm tốn của mình. Tất nhiên
làm việc thiện là theo khả năng, đóng
góp ít nhiều thì cũng là tấm lòng thảo
thơm, ai đâu rỗi hơi đi so bì, tị nạnh
đâu mà chúng ta phải sợ, nhỉ!
Nhưng rõ ràng công khai sao kê cũng
làm lộ ra vài điều không vui. Có thể một
số trường hợp đã “phóng đại” số tiền
ủng hộ thực của mình trên mạng xã hội.
Có người chỉ đóng góp vài chục ngàn
đồng nhưng lại khoe khoang đóng góp
đến vài triệu đồng. Có người thực tế
đóng góp vài trăm ngàn đồng nhưng lại
“giật tít” thành cả chục triệu đồng. Sự
khoe mẽ ấy đã bị nhiều người chỉ ra và
họ cũng đã xin lỗi. Có người ngay sau
đó đã “khắc phục hậu quả” bằng cách
ủng hộ đúng số tiền mà mình đã lỡ nói
vống trước đây. Cũng có trường hợp
“gắp lửa bỏ tay người” khi mạo danh
ai đó rồi gửi số tiền rất khiêm tốn nhằm
làm giảm uy tín của người được nêu
tên. Ngoài ra, không loại trừ có người
đứng ra gom tiền của người khác nhưng
thực gửi thì rất ít. Sao kê cũng sẽ làm lộ
bản chất trục lợi của người “gom bi”.
Những trường hợp này, nếu có các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ điều
tra, xử lý nghiêm minh theo quy định
của pháp luật...
Nhưng trên hết, có thể thấy công bố
sao kê là để minh bạch chứ không nhằm
“check VAR” lòng thiện của bất cứ
người nào. “Miếng khi đói, gói khi no/
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng”.
Do đó, không ai đi đếm đo lòng tốt, dẫu
rằng khả năng làm việc tốt, đóng góp
thiện nguyện của mỗi người là khác
nhau. Dù ít hay nhiều thì người đóng
góp cũng được hưởng niềm vui và sự
thanh thản bằng nhau vì mình đã làm
được một việc tốt - nhất là việc làm ý
nghĩa ấy phù hợp với truyền thống tốt
đẹp của dân tộc.
Đất nước đã trải qua nhiều lần thiên
tai, mất mát, chúng ta đã thấy có những
cụ bà buôn gánh bán bưng, vét những
đồng tiền còm cõi, thấm đẫm mồ hôi để
chung tay giúp đỡ đồng bào vượt qua
khó khăn. Chúng ta cũng thấy những
người bán vé số, tất tả ngược xuôi với
số tiền ít ỏi góp sức kiến tạo quê hương
sau bão lũ. Tất cả, tất cả đã tạo nên
một dòng chảy nhân văn, đầy bản sắc,
thương người như thể thương thân.
Từ thiện vốn dĩ xuất phát từ thiện
tâm của mỗi người và không thể mang
ra cân - đong - đo - đếm một cách rạch
ròi. Rõ ràng, những cần lao, trí thức sẽ
không thể có tiền trăm triệu hay tiền tỉ
để đóng góp cho từ thiện nhưng họ có
lòng trắc ẩn, nghĩa đồng bào và số tiền
mà họ mang ra đóng góp, cho dù ít ỏi,
vẫn là tất cả những gì họ có. Điều này
đáng trân quý và thể hiện đúng lời dạy
của cụ Nguyễn Trãi: “Đồng tiền bát
gạo mang ra/ Rằng đây “cần kiệm” gọi
là làm duyên”.
Công khai sao kê cho dù có kéo theo
vài hệ quả không mong muốn về chuyện
này, chuyện kia nhưng sau tất cả, nó
vẫn không làm suy suyển lòng tốt của
mọi người. Tính công khai, minh bạch
trong tiếp nhận, phân phối và sử dụng
các nguồn đóng góp là nguyên tắc sống
còn trong hoạt động thiện nguyện mà
công khai sao kê chỉ là một phương
thức. Trong tương lai, có lẽ chúng ta
cũng nên suy nghĩ đến một cách thức
thực hiện công khai, minh bạch theo
quy trình gọn nhẹ, tránh rườm rà, tốn
kém về nhân lực, vật lực... Tất nhiên, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
nếu cần kiểm tra, người dân nếu cần
giám sát thì vẫn có quyền yêu cầu cung
cấp sao kê.
TS
CAO VŨ MINH,
Trường ĐH
Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM
(Tiếp theo trang 1)