7
Hôm nay (19-9), TAND TP.HCM sẽ mở phiên tòa
xét xử bị cáo Trương Mỹ Lan (chủ tịch Tập đoàn Vạn
Thịnh Phát) cùng 33 bị cáo khác về các tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, rửa tiền và vận chuyển trái phép tiền tệ qua
biên giới. Ba Trương Mỹ Lan là một trong bốn bị cáo bị
VKSND Tối cao truy tố về cả ba tội danh.
Trong giai đoạn 2 của vụ án, cơ quan tố tụng xác định
có 35.824 bị hại và 534 tổ chức, cá nhân là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Dự kiến phiên tòa sẽ kéo
dài đến ngày 19-10.
Theo cao buôc, ơ tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bi cao
Trương Mỹ Lan đã họp với các nhân sự chủ chốt của
Tập đoàn Vạn Thịnh Phát và Ngân hàng TMCP Sài Gòn
(SCB) để chọn và sử dụng bốn công ty thuộc tập đoàn
phát hành 25 mã trái phiếu khống, không có tài sản đảm
bảo. Mục đích nhằm tăng quy mô vốn, phát triển hoạt
động kinh doanh, dự án đầu tư và cơ cấu lại các khoản nợ.
25 mã trái phiếu được phát hành bởi bốn công ty (An
Đông, Quang Thuận, Sunny World và Setra) với tổng
cộng 308.691.388 trái phiếu, có giá trị 30.869 tỉ đồng.
Tiền thu về từ việc phát hành trái phiếu, bi cao Trương
Mỹ Lan đã chỉ đạo cấp dưới thực hiện nhiều giao dịch,
phương pháp để rút tiền ra khỏi Ngân hàng SCB sử dụng
vào nhiều mục đích khác nhau dẫn đến mất khả năng chi
trả cho người mua trái phiếu.
Ở tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới, cơ quan
tố tụng cũng xác định trong khoảng thời gian từ năm 2012
đên 2020, 23 công ty thuộc Tập đoàn Vạn Thịnh Phát đã
thực hiện chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài và từ
nước ngoài về Việt Nam trái quy định với tổng số tiền 4,5
tỉ USD, tương đương hơn 106.000 tỉ đồng. Trong đó, tiền
chuyển ra nước ngoài là 1,5 tỉ USD, tiền nhận từ nước
ngoài là 3 tỉ USD.
Ở tội rửa tiền, 445.000 tỉ đồng là số tiền được bi cao
Trương Mỹ Lan cùng đồng phạm dùng nhiều phương thức
để cắt đứt dòng tiền do phạm tội mà có. Trong đó, hơn
415.000 tỉ đồng là từ “rút ruột” Ngân hàng SCB và 30.000
tỉ đồng là lừa đảo chiếm đoạt của các nhà đầu tư thông
qua phát hành trái phiếu.
HỮU ĐĂNG
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Năm19-9-2024
Bị cáo TrươngMỹ Lan trong giai đoạn 1 của vụ án.
Ảnh: HOÀNGGIANG
khiếu nại, tố cáo.
Để dự liệu các tình huống phát
sinh khi có dịch bệnh xảy ra, việc
hướng dẫn dịch bệnh là một trong
những lý do sự kiện bất khả kháng
là cần thiết. Điều này cũng phù hợp
với quy định tại khoản 1 Điều 156
Bộ luật Dân sự và khoản 13, 14
Điều 3 Luật Tố tụng hành chính,
quy định về trở ngại khách quan
và sự kiện bất khả kháng.
Được chứng kiến
thỏa thuận thi hành án
ngoài trụ sở
Khoản 4Điều 5Nghị định 62/2015
đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản
3 Điều 1 Nghị định 33/2020 về thỏa
thuận THA, việc chứng kiến thỏa
thuận phải được thực hiện tại trụ
sở của cơ quan THADS.
Theo bản thuyết minh chi tiết của
Bộ Tư pháp, nội dung thỏa thuận
THA theo Nghị định 33/2020 đã
quy định hạn chế khi chỉ cho chấp
hành viên chứng kiến việc thỏa
thuận tại trụ sở.
Sau bôn năm thực hiện, quy định
này không còn phù hợp với thực
tiễn, một số trường hợp cụ thể vẫn
cần sự chứng kiến của chấp hành
viên ngoài trụ sở cơ quan THADS
để kết thúc việc THA.
Do đó, dự thảo nghị định đã
thay đổi theo hướng đối với các
trường hợp thỏa thuận giao quyền
sở hữu, sử dụng, quản lý tài sản;
giao quyền nuôi dưỡng người chưa
thành niên; giao quyền thăm nom,
chăm nom, chăm sóc người chưa
thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người không có
khả năng lao động thì chấp hành
viên có thể chứng kiến ngoài trụ
sở cơ quan THADS.
Văn bản thỏa thuận phải có
chữ ký của người làm chứng
hoặc đại diện chính quyền cấp
xã hoặc tổ dân phố nơi chứng
kiến thỏa thuận.
TheoThSHồQuânChính (trưởng
bộ môn Đào tạo các chức danh
THADS tại Học viện Tư pháp - Cơ
sở TP.HCM), nguyên tắc tự do, tự
nguyện thỏa thuận là một nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự
và hầu như không bị hạn chế về
mặt không gian. Việc hạn chế chỉ
được thực hiện thỏa thuận tại trụ
sở cơ quan THADS là chưa thực
sự phù hợp.
SONGMAI
B
ộ Tư pháp đang dự thảo Nghị
định sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định 62/2015
quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi hành
án dân sự (THADS), đã được sửa
đổi, bổ sung một số điều tại Nghị
định 33/2020.
Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung 18
điều, khoản và bãi bỏ điểm c khoản
2 Điều 24 Nghị định 62/2015.
Trong đo, một số điểm sửa đổi, bổ
sung đang chu y như sự kiện bất
khả kháng trong thời hiệu yêu cầu
THA, việc thỏa thuận THA, xác
minh điều kiện THA; đăng ký cấp
chứng nhận quyền sở hữu, quyền
sử dụng tài sản…
Bổ sung trường h p
bất khả kháng
Tại điểm a khoản 3 Điều 4 Nghị
định 62/2015 (Nghị định 33/2020
không sửa đổi) quy định sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan là trường hợp thiên tai, hỏa
hoạn, địch họa.
Khoản 1 Điều 1 dự thảo nghị
định đã bổ sung quy định “sự
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan là trường hợp dịch,
bệnh truyền nhiễm do cơ quan có
thẩm quyền công bố mà đương sự
không thể thực hiện được quyền
yêu cầu THA”.
Theo bản thuyết minh chi tiết
của Bộ Tư pháp, trong thời gian
qua, các cơ quan THADS, cụ thể là
thời gian diễn ra dịch COVID-19,
thời hạn thực hiện các trình tự, thủ
tục tổ chức THA, yêu cầu THAcủa
đương sự bị ảnh hưởng nhưng chưa
có quy định về việc không tính vào
thời hạn, thời hiệu. Từ đó, nhiều
trường hợp đương sự làm đơn yêu
cầu THA quá thời hiệu, chấp hành
viên chậm tổ chức THA… dẫn đến
Chấp hành viên trongmột buổi làmviệc, cưỡng chế kê biên tài sản năm2023. Ảnh: SONGMAI
Bộ Tư phap đề xuât nhiều
quy định mới về thi hanh an
Trong dự thảo, Bộ Tư pháp đề xuất ch p hành viên có thể chứng kiến thỏa thuận thi hành n ngoài trụ sở
trongm t số trường hợp…
Dự thảo đã mở rộng hơn về không
gian thỏa thuận. Tuy nhiên, để đảm
bảo hiệu quả của việc THADS thì
không nên hạn chế về phạm vi
không gian nơi các bên thực hiện
thỏa thuận đối với từng loại việc
THADS. Vì theo chính sách pháp
luật, khuyến khích đương sự tự do,
tự nguyện thỏa thuận giải quyết với
nhau. Do vậy, trong THADS, vấn
đề cần quan tâm nhất chính là nội
dung thỏa thuận của các bên đương
sự chứ không phải là nơi thỏa thuận
của các bên đương sự.
Do vậy, để đảm bảo hiệu quả
của hoạt động THADS liên quan
đến thỏa thuận THA, nhà làm luật
không nên quan tâm nhiều đến nơi
thực hiện thỏa thuận mà cần quan
tâm hơn đến nội dung thỏa thuận và
trách nhiệm của các bên trong việc
thực hiện thỏa thuận đó.•
Hômnay, xét xửvụánVạnThịnhPhát giai đoạn2
Theo ThS Hồ Quân
Chính, trong thi hành n
dân sự, vấn đề cần quan
tâm nhất chính là nội
dung thỏa thuận của c c
bên đương sự chứ không
phải là nơi thỏa thuận
của c c bên đương sự.
Xác minh đi u kiện thi hành án qua cơ sở
dữ liệu quốc gia
Khoản 3 Điều 1 dự thảo nghị định cũng bổ sung việc xác minh điều
kiện THA. Theo đó, khi xác minh điều kiện THA, chấp hành viên có thể
xác minh thông qua ứng dụng định danh điện tử, cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư, đăng ký doanh nghiệp, đất đai và các cơ sở dữ liệu khác theo
trình tự, thủ tục của pháp luật chuyên ngành. Kết quả xác minh được sử
dụng để tổ chức THA theo quy định.
Điều này phù hợp với thực tế, vì hiện nay với sự phát triển của công
nghệ 4.0, cơ sở dữ liệu quốc gia là một bước tiến mới trong việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước và phục vụ người dân,
góp phần chuyển đổi số; giảm thiểu chi phí và thời gian khi làm các thủ
tục hành chính liên quan đến thông tin cá nhân, tăng cường tính minh
bạch, công khai…