6
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Hai 8-1-2024
YẾNCHÂU
T
AND Tối cao đang dự thảo
Nghị quyết hướng dẫn một số
quy định của pháp luật trong
giải quyết vụ việc về hôn nhân và
gia đình (HN&GĐ), trong đó đáng
chú ý là quy định liên quan đến
việc giải quyết ly hôn.
Xác định trường hợp bị
đơn cố tình giấu địa chỉ
Thực tiễn cho thấy trong các vụ
án ly hôn, rất nhiều trường hợp vợ
hoặc chồng không đồng ý ly hôn
nên đã cố tình che giấu thông tin,
dẫn đến việc xác định địa chỉ chính
xác của người bị kiện để nộp đơn
khởi kiện hay tống đạt các văn bản
tố tụng gặp nhiều khó khăn. Từ đó,
việc giải quyết vụ án bị kéo dài, gây
ảnh hưởng đến cuộc sống cũng như
quyền lợi của một bên.
Hiện nay, Điều 192 BLTTDS
năm 2015 (hướng dẫn bởi Nghị
quyết 04/2017/NQ-HĐTP) đã có
quy định về trường hợp người bị
kiện che giấu địa chỉ, trốn tránh
nghĩa vụ đối với người khởi kiện
thì thẩm phán sẽ không trả lại đơn
khởi kiện mà tiến hành thụ lý, giải
quyết theo thủ tục chung.
Nay tại dự thảo Nghị quyết hướng
dẫn một số quy định của pháp luật
trong giải quyết vụ việc về HN&GĐ
(lần 4.1) đã hướng dẫn cụ thể hơn,
không chỉ trước khi thụ lý mà cả
sau khi thụ lý vụ án.
Theo đó, trường hợp trong đơn
khởi kiện, người khởi kiện đã ghi
đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú,
làm việc của người bị kiện hoặc nơi
vợ chồng thường xuyên chung sống
thì tòa án phải nhận đơn khởi kiện.
Liên quan đến vụ “một cựu cán bộ văn phòng đất đai
bị tố ôm tiền tỉ bỏ trốn” vào cuối năm 2020, mới đây một
lãnh đạo Cơ quan CSĐT (PC02) Công an tỉnh Bình Thuận
cho biết đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Theo đó, quá trình tiếp nhận, thụ lý tin báo tố giác tội
phạm về việc bà VKT, nhân viên môi giới bất động sản
ở TP Phan Thiết, vay mượn hơn 30 tỉ đồng và giữ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của nhiều người mà bà T
nhận để làm thủ tục tách thửa, sang tên…, PC02 đã tiến
hành điều tra, xác định là giao dịch dân sự.
Đối với thông tin sau khi mất khả năng chi trả, bà T bỏ
trốn, theo lãnh đạo PC02, thời gian đầu bà T chỉ lánh mặt
do áp lực quá lớn của các chủ nợ. Những người này liên
tục đến nhà riêng; trụ sở công ty và gọi vào số máy của bà
T nên phải tắt máy, lánh mặt.
Sau đó, thông qua gia đình, người thân, Cơ quan CSĐT
công an tỉnh đã liên lạc yêu cầu bà T đến làm việc. Quá
trình thụ lý điều tra, PC02 đã chuyển vụ việc vay mượn
tiền cho Công an TP Phan Thiết để điều tra theo thẩm
quyền và xác định vụ việc là dân sự nên hướng dẫn các
đương sự có thể khởi kiện dân sự tại tòa án.
Riêng trường hợp bà T giữ các giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của khách hàng, qua điều tra, PC02 cũng xác
định hai bên thỏa thuận với nhau có công chứng nên đã ra
quyết định không khởi tố vụ án và đã tống đạt quyết định
nói trên cho bà T.
Như vậy, các đơn tố cáo với nội dung cho rằng bà T ôm
tiền tỉ và nhiều giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bỏ
trốn, có dấu hiệu lừa đảo là không có cơ sở.
PHƯƠNG NAM
Khôngkhởi tố vụmột cựu cánbộđất đai lánhmặt tránh chủnợ
Một bản án xác định bị đơn cố tình giấu địa chỉ
Bản án số 72/2022/HNGĐ-ST ngày 2-6-2022 củaTAND tỉnh Bắc Giang có
nguyên đơn là anh M và bị đơn là chị L.
Theo đó, TAND tỉnh Bắc Giang đã tiến hành làm việc với ông N (cha của
chị L) để giao thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu ông N thông báo cho chị L
biết về việc tòa án đang thụ lý vụ án HN&GĐ giữa anh M và chị L, yêu cầu
ông N cung cấp địa chỉ cụ thể của chị L ở nước ngoài.
Ông N trình bày: Chị L vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình. Tuy nhiên,
tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà ông N vẫn không cung cấp địa chỉ, tin
tức của chị L cho tòa án. Ông N cho biết đã thông báo nội dung về việc thụ
lý vụ án cho chị L được biết và yêu cầu chị L gửi bản tự khai về cho tòa án
nhưng cho đến nay tòa án vẫn không nhận được bản tự khai do chị L gửi về.
Nhận thấy đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo,
từ chối cung cấpnhững tài liệu cần thiết.Vì vậy, tòa án xét xử vắngmặt chị L...
“Việc dự thảo đặt ra
trách nhiệm của thân
nhân trong việc cung cấp
địa chỉ, tin tức của
bị đơn cho tòa án làm
phát sinh vấn đề như
thân nhân là ai, điều
này cần làm rõ.”
Luật sư
Phan Thanh Tuấn
Bị đơn vụ
kiện ly hôn
giấu địa chỉ,
xử lý ra sao?
Dự thảo của TANDTối cao đặt ra trách
nhiệm của thân nhân bị đơn (chồng/vợ)
trong việc cung cấp địa chỉ, thông tin
bị đơn cho tòa án.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án,
tòa án không tống đạt được thông
báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn
không còn cư trú, làm việc tại địa
chỉ mà nguyên đơn cung cấp, nếu
có căn cứ để xác định họ vẫn liên
hệ với thân nhân nhưng thân nhân
của họ không cung cấp địa chỉ, tin
tức cho tòa án cũng như không thực
hiện yêu cầu của tòa án thông báo
cho bị đơn biết để gửi lời khai về
cho tòa án thì coi đây là trường hợp
bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối
khai báo, từ chối cung cấp những
tài liệu cần thiết.
Khi đó, tòa án đưa vụ án ra xét
xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục
chung nếu đã yêu cầu đến lần thứ
hai mà thân nhân của họ không cung
cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho
tòa án cũng như không thực hiện
yêu cầu của tòa án thông báo cho
bị đơn biết.
Cần quy định thời gian
thông báo địa chỉ
Nêu quan điểm, ThS Xa Kiều
Oanh (Trường ĐH Luật TP.HCM)
cho rằng dự thảo đã đưa ra cách
thức giải quyết tương tự như trường
hợp xét xử vắng mặt bị đơn theo
điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS
năm 2015.
Cụ thể, gửi yêu cầu đến thân nhân
của bị đơn đến lần thứ hai nhưng
họ vẫn không cung cấp địa chỉ, tin
tức của bị đơn thì tòa án sẽ tiến
hành xét xử vắng mặt bị đơn. Nói
cách khác, hệ quả của hai trường
hợp: (i) Đã xác định được địa chỉ
bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt
đến lần triệu tập hợp lệ lần thứ hai
và (ii) không xác định được địa chỉ
bị đơn dù đã gửi yêu cầu đến thân
nhân của bị đơn lần thứ hai để yêu
cầu cung cấp địa chỉ là giống nhau,
đều tiếp tục giải quyết vụ án theo
thủ tục chung mà không đình chỉ
việc giải quyết vụ án vì lý do không
tống đạt được cho bị đơn.
Thế nhưng, dự thảo lại không quy
định thời gian cụ thể trong bao lâu
sau khi có thông báo lần thứ hai thì
tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử vắng
mặt bị đơn theo thủ tục chung.
Do đó, để hoàn thiện, ThS Oanh
cho rằng dự thảo có thể sửa đổi bằng
việc quy định: Trường hợp này, tòa
án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị
đơn theo thủ tục chung nếu đã yêu
cầu đến lần thứ hai và trong thời hạn
bảy ngày kể từ ngày đưa ra yêu cầu
mà thân nhân của họ không cung
cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho
tòa án cũng như không thực hiện
yêu cầu của tòa án thông báo cho
bị đơn biết.
“Quy định như trên nhằm ràng
buộc bị đơn, thân nhân của bị đơn
về mặt thời gian. Có nghĩa là nếu
qua thời gian bảy ngày kể từ ngày
tòa án yêu cầu mà bị đơn, thân nhân
của bị đơn không cung cấp địa chỉ
của bị đơn thì chính bị đơn đã tự
tước đi các quyền, lợi ích của mình
trong giải quyết vụ án ly hôn” - ThS
Oanh nói.
Bên cạnh đó, nếu không quy
định thời hạn trong bao lâu thì thời
gian giải quyết vụ án ly hôn sẽ trở
nên kéo dài và cũng sẽ ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn.
Còn theo luật sư PhanThanhTuấn
(Đoàn Luật sư TP.HCM), việc dự
thảo đặt ra trách nhiệm của thân
nhân của bị đơn trong việc cung
cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho
tòa án cũng làm phát sinh nhiều
vấn đề. Đơn cử như dự thảo chưa
làm rõ thân nhân của bị đơn là ai,
hay nói cách khác dự thảo chưa xác
định người nào được xem là thân
nhân của bị đơn.
Đồng thời, dự thảo cũng chưa đưa
ra được các tiêu chí để xác định khi
nào thân nhân của bị đơn được xem
là biết thông tin liên lạc của bị đơn.
“Dự thảo cần làm rõ những điểm
này để tòa án không áp dụng tùy
tiện khi giải quyết vụ án” - luật sư
Tuấn nêu quan điểm.•