051-2024 - page 7

7
Tiêu điểm
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Tư13-3-2024
Tố cáo ra công an về dấu hiệu trốn thuế
Tại phần nhận định, HĐXX sơ thẩm có ghi nhận tình tiết hợp đồng đặt
cọc giá 15 tỉ đồng (bà Tr cũng thừa nhận đã chuyển hơn 15 tỉ đồng cho vợ
chồng bà A), hợp đồng chuyển nhượng giá 200 triệu đồng nhưng không
đưa ra bất kỳ nhận định nào về sự chênh lệch giá giữa hai hợp đồng này.
Sau khi xử sơ thẩm, bà T đã kháng cáo.
Bên cạnh đó, theo bà T, giá chuyển nhượng trên hợp đồng đặt cọc là
15 tỉ đồng, giá thực tế (theo lời trình bày của bà Tr) là hơn 15,068 tỉ đồng,
trong khi đó giá chuyển nhượng trên hợp đồng công chứng chỉ ghi 200
triệu đồng.
Vì vậy, ngày 25-10-2023, bà T gửi đơn tố cáo vợ chồng bà A đến Công
an huyện Dầu Tiếng vì cho rằng có hành vi trốn thuế.
Để hiểu rõ hơn sự việc, ngày 28-2, PV đã liên hệ với Công an huyện Dầu
Tiếng để tìm hiểu về việc giải quyết đơn tố cáo nêu trên. Đến ngày 5-3,
Công an huyện Dầu Tiếng cho biết đã tiếp nhận đơn tố cáo của bà T và
đang trong quá trình xác minh xem có dấu hiệu của tội phạm hay không.
Hiện cơ quan điều tra đang xác minh bên cơ quan thuế, khi có kết quả
sẽ xử lý theo quy định.
Căn nhà và đất duy nhấtmà vợ chồng bà A có đã chuyển nhượng cho người khác. Ảnh: YC
Bán nhà giá 15 tỉ nhưng hợp đồng
chỉ ghi 200 triệu
Nguyên đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu vì cho rằng đây là hành vi tẩu tán tài sản;
giá chuyển nhượng là 15 tỉ đồng nhưng ghi trên hợp đồng chỉ 200 triệu đồng...
YẾNCHÂU
D
ự kiến ngày 19-3, TAND tỉnh
Bình Dương sẽ mở phiên tòa
phúc thẩm vụ án tranh chấp
giữa nguyên đơn là bà T với bị đơn
là vợ chồng bà A (cùng ngụ huyện
Dầu Tiếng, Bình Dương) liên quan
đến yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu và hủy giấy chứng
nhận (GCN) quyền sử dụng đất
(QSDĐ).
Trước đó, phiên tòa được đưa ra
xét xử vào ngày 26-2 nhưng hoãn
theo đơn của phía nguyên đơn.
Kiện vì cho rằng bị đơn
tẩu tán tài sản
Theo bà T, vợ chồng bà A có vay
của bà 14 tỉ đồng. Do vợ chồng bàA
không trả nên ngày 7-5-2021, bà T
khởi kiện vợ chồng bà A tại TAND
huyện Dầu Tiếng và được tòa này ra
thông báo thụ lý vào ngày 11-5-2021.
Do hai bên thỏa thuận được nên
ngày 9-6-2021, TAND huyện Dầu
Tiếng ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận. Theo đó, vợ chồng bà
A đồng ý có nghĩa vụ trả cho bà T
14 tỉ đồng.
Bà T đã làm đơn yêu cầu thi hành
án và Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Dầu Tiếng đã ra quyết định
thi hành án.
Tuy nhiên, bà T sau đó nhận được
thông tin ngày 22-4-2021, vợ chồng
bàAđã lập hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng tài sản duy nhất là nhà và
đất tại huyện Dầu Tiếng cho bà Tr
với giá 15 tỉ đồng. Đến ngày 12-5-
2021 (tức sau ngày tòa thụ lý đơn
kiện của bà T), vợ chồng bà A và
bà Tr đã công chứng ký hợp đồng
chuyển nhượng nhà và đất này với
giá ghi trên hợp đồng là 200 triệu
đồng. Bà Tr đã được cấp GCN vào
ngày 14-6-2021.
Cho rằng hành vi này nhằm tẩu tán
tài sản nên bà T tiếp tục khởi kiện
vợ chồng bà A, yêu cầu tuyên hợp
đồng chuyển nhượng (đã được công
chứng tại Văn phòng công chứng
NguyễnThị Gái ở BìnhDương) giữa
vợ chồng bà A với bà Tr vô hiệu,
yêu cầu hủy GCN đã cấp cho bà Tr.
Theo bà T, ngày 7-5-2021, bà đã
khởi kiện vợ chồng bà A tại tòa án.
Ngày 11-5-2021, tòa ra thông báo
thụ lý và đã thông báo cho vợ chồng
bà A về việc bị bà T kiện đòi 14 tỉ
đồng. Thế nhưng ngày 12-5-2021, vợ
chồng bàA lại ký hợp đồng chuyển
nhượng đất cho bà Tr khi đây là tài
sản duy nhất của vợ chồng bà A.
Việc trốn tránh trả nợ còn thể hiện
rất rõ khi tất cả giấy nợ có trước thời
điểm các bên lập hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ. Khi nhận tiền bán
nhà, bà A cũng không thanh toán
cho bà T hay những chủ nợ khác.
Tại tòa, người nhận
chuyển nhượng căn nhà
(bà Tr) thừa nhận đã trả
hơn 15 tỉ đồng cho vợ
chồng bà A.
Vănphòng công chứngNguyễnThị
Gái, thời điểmcông chứng hợp đồng
chuyểnnhượnggiữavợchồngbàAvới
bàTr dobàNguyễnThị Gái làmtrưởng
văn phòng, đại diện theo pháp luật
được triệu tập tham gia phiên tòa sơ
thẩm nhưng xin vắng mặt.
Ngày 23-10-2023, bà Gái đã bị khởi
tố để điều tra về tội thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng trong vụ
án khác. Bà bị cáo buộc đã có hành vi
thiếu trách nhiệm trong việc quản lý,
giám sát các hoạt động công chứng
tại Văn phòng công chứng Nguyễn
Thị Gái. Từ đó, tạo điều kiện để công
chứng viên và một số người khác
thực hiện việc công chứng các hợp
đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ rồi chiếm đoạt tài sản
của các bị hại.
Liên quan đến vụ án, bà T cho
biết vợ chồng bàAcòn bị bốn người
khác khởi kiện đòi nợ và đều đã
được tòa án giải quyết (bằng bản
án, quyết định), buộc bà A phải trả
nợ cho những người này (với số tiền
từ 800 triệu đến 5 tỉ đồng). Những
người này tham gia trong vụ án của
bà T với tư cách người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Bị đơn vắng mặt trong
suốt quá trình tố tụng
Đáng chú ý, trong vụ án này vợ
chồng bà A làm đơn xin vắng mặt
trong các buổi lấy lời khai, đối chất,
đo đạc, định giá, tiếp cận công khai
chứng cứ, hòa giải, các buổi xét xử
và trong suốt quá trình tố tụng của
tòa án. Lý do là bận công việc nên
không thể tham gia.
Ngày 14-8-2023, TAND huyện
Dầu Tiếng đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm. Tại buổi này, vợ chồng bà A
tiếp tục vắng mặt và cũng không
có bất kỳ văn bản nào ghi ý kiến
của ông bà.
Về phía bà T, bà vẫn giữ nguyên
các yêu cầu khởi kiện. Bốn chủ nợ
khác của bà A cũng đề nghị tuyên
bố hợp đồng chuyển nhượng vô
hiệu vì đây là hành vi tẩu tán tài sản.
Bà Tr (tham gia với tư cách người
liên quan) trình bày rằng bà và vợ
chồng bà A có ký hợp đồng đặt
cọc để sang nhượng nhà đất của
vợ chồng bà A với giá 15 tỉ đồng
bao gồm nhà đất và toàn bộ tài sản
bên trong như bàn ghế, cây trồng...
Sau đó, hai bên đã ký hợp đồng
chuyển nhượng tại văn phòng công
chứng. Bà Tr đã thanh toán tổng
cộng hơn 15,068 tỉ đồng cho vợ
chồng bà A và đã được cấp GCN.
Bà Tr cho rằng việc mua bán là tự
nguyện, ngay tình, hợp pháp nên
đề nghị không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Dầu Tiếng (cơ quan thi hành án vụ
kiện đầu tiên, tham gia vụ kiện này
với tư cách người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan) cho biết quá trình thi
hành án quyết định công nhận sự
thỏa thuận, vợ chồng bàAkhông tự
nguyện thi hành án để trả cho bà T
14 tỉ đồng. Hiện tại, vợ chồng bàA
không còn tài sản hay điều kiện để
thi hành án nào khác ngoài tài sản
là QSDĐ đã chuyển nhượng cho bà
Tr. Chi cục Thi hành án đề nghị tòa
án giải quyết theo quy định.
Cònphía vănphòng công chứng thì
trình bày sau khi kiểm tra bản chính
GCNQSDĐ, văn bản xác nhận tình
trạng bất động sản, GCN kết hôn,
giấy tờ tùy thân của các bên giao
dịch, công chứng viên xác định các
bên có đủ năng lực hành vi dân sự,
việc giao kết hợp đồng giữa các bên
là hoàn toàn tự nguyện. Mục đích và
nội dung giao kết hợp đồng không
vi phạm pháp luật, không trái đạo
đức xã hội... Sau đó, các bên đã ký
tên, điểm chỉ trước mặt công chứng
viên. Hợp đồng đã được chứng nhận
theo quy định của pháp luật và đề
nghị tòa án giải quyết theo quy định.
Sau khi nghe các bên trình bày
và căn cứ tài liệu, hồ sơ của vụ án,
TAND huyện Dầu Tiếng nhận định
hợp đồng chuyển nhượng lập ngày
12-5-2021 hình thành từ hợp đồng
đặt cọc ngày 22-4-2021, ý chí các
bên về chuyển nhượng có trước khi
bản án, các quyết định công nhận
của bà T và bốn người liên quan
(chủ nợ của bà A - PV).
Hơn nữa, bà Tr đã thanh toán đủ
số tiền chuyển nhượng QSDĐ cho
vợ chồng bà A, đã nhận QSDĐ
và tài sản trên đất để quản lý, sử
dụng. Các bên tham gia giao dịch
tự nguyện, việc thỏa thuận của các
bên không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội nên
hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ có
hiệu lực pháp luật.
Vì vậy, HĐXX sơ thẩm cho rằng
không có căn cứ để xác định hợp
đồng này bị vô hiệu. Do văn bản
công chứng không bị vô hiệu nên
yêu cầu khởi kiện của bà T là hoàn
toàn không có căn cứ.
Từ đó, TAND huyện Dầu Tiếng
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của bà T, không chấp
nhận yêu cầu của bốn người liên
quan (bốn chủ nợ - PV), chấp nhận
toàn bộ yêu cầu của bà Tr về giữ
nguyên hợp đồng chuyển nhượng và
giữ nguyên GCN đã cấp cho bà Tr.•
1,2,3,4,5,6 8,9,10,11,12,13,14,15,16
Powered by FlippingBook