14
Bạn đọc -
ThứNăm29-8-2024
HUỲNHTHƠ
S
au gần hai tháng triển
khai Luật Căn cước,
báo
Pháp Luật TP.HCM
tiếp tục nhận được một số
thắc mắc của bạn đọc liên
quan đến thẻ căn cước, Luật
Căn cước.
Có thể đến nơi
tạm trú làm thẻ
căn cước không?
Theo đó, chị Nguyễn Thị
Hồng Luyến có địa chỉ tạm trú
tại quận 7, TP.HCM, thường
trú tỉnhVĩnh Long, chị Luyến
thắc mắc là chị có thể làm thẻ
căn cước tại nơi chị đang tạm
trú được không, bởi chị phải
đi làm, di chuyển cũng khá
bất tiện.
“CCCD của tôi vừa hết
hạn nhưng do bận nhiều công
việc, tôi không thể về quê
làm thủ tục cấp thẻ căn cước.
Tôi nghe nói có thể đến nơi
tạm trú vẫn làm được, không
biết có đúng không” - chị
Luyến hỏi.
Tương tự, chị Nguyễn Thị
Ý Di, ngụ quận 5, TP.HCM,
cũng thắc mắc việc thực hiện
cấp thẻ căn cước tại nơi tạm
trú có được không, nếu được
thì thủ tục có giống như bình
thường được cấp tại nơi
thường trú và khi đi thực
hiện cần mang theo những
giấy tờ nào?
“Tôi thấy một số người
có CCCD còn hạn sử dụng
nhưng họ vẫn đổi sang thẻ
căn cước, việc này có phải
bắt buộc không hay do người
dân tự đi làm” - chị Di hỏi.
Một thắc mắc khác, anh
Huỳnh Khánh, ngụ quận Tân
Phú, cho biết anh có con gái
ba tuổi và con trai 12 tuổi,
trước đây khi đi máy bay anh
phải mang theo giấy khai
sinh cho các con, tuy nhiên
giấy khai sinh có kích thước
bằng giấy tờ A4 mang theo
rất bất tiện. Nay anh muốn
làm thủ tục cấp căn cước cho
con để có thể thay thế cho
giấy khai sinh.
“Mỗi lần đi máy bay về quê
là phải mang theo giấy khai
sinh cho con, có lầnquênmang
theo phải chạy về nhà lấy làm
trễ luôn chuyến bay. Nếu có
thẻ căn cước rồi sẽ nhỏ gọn, dễ
mang theo” - anh Khánh nói.
Làm thẻ căn cước
tại nơi tạm trú
Trao đổi với PV, Thượng tá
NguyễnNgọcHải, PhóTrưởng
phòng Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội (PC06)
Công an TP.HCM, cho biết
theo Điều 27 Luật Căn cước
năm 2023 quy định nơi làm
thủ tục cấp, cấp đổi, cấp lại
thẻ căn cước.
Cụ thể, cơ quan quản lý
căn cước của công an huyện,
quận, thị xã, TP thuộc tỉnh,
TP thuộc TP trực thuộc Trung
ương hoặc cơ quan quản lý
căn cước của công an tỉnh,
TP trực thuộc Trung ương
nơi công dân cư trú.
Cơ quan quản l ý căn
cước của Bộ Công an đối
với những trường hợp do
thủ trưởng cơ quan quản lý
căn cước của Bộ Công an
quyết định.
Trong trường hợp cần thiết,
cơ quan quản lý căn cước tổ
chức làm thủ tục cấp thẻ căn
cước tại xã, phường, thị trấn,
cơ quan, đơn vị hoặc tại chỗ
ở của công dân.
Bên cạnh đó, Điều 11 Luật
Cư trú năm2020 quy định nơi
cư trú của công dân bao gồm
nơi thường trú, nơi tạm trú.
Trường hợp không xác định
được nơi thường trú, nơi tạm
trú thì nơi cư trú của công dân
là nơi ở hiện tại được xác định
theo quy định.
“Như vậy, theo quy định
trên, trường hợp muốn cấp,
cấp đổi, cấp lại thẻ căn cước
Không bắt buộc đổi thẻ căn cước
nếu CCCD vẫn còn hạn sử dụng
CMND còn hạn sử dụng đến sau ngày 31-12-2024 có giá
trị sử dụng đến ngày 31-12-2024, tức là từ ngày 1-1-2025
CMND sẽ không còn giá trị sử dụng nữa. Những CCCD được
cấp trước ngày 1-7-2024 vẫn tiếp tục có giá trị sử dụng đến
hết thời hạn ghi trên thẻ.
Như vậy, khi Luật Căn cước năm 2023 có hiệu lực thì người
dân không bắt buộc phải đổi qua thẻ căn cước mà người có
CCCD còn hạn vẫn có thể tiếp tục sử dụng. Ngoài ra, khi công
dân làm thủ tục cấp thẻ căn cước lần đầu sẽ không mất phí.
Thượng tá
NGUYỄN NGỌC HẢI
,
Phó Trưởng phòng
Cảnh sát
quản lý
hành chính về trật tự
xã hội
(PC06)
Công an TP.HCM
Giải đáp một số thắc mắc
về Luật Căn cước
CCCD được cấp
trước ngày 1-7-2024
vẫn tiếp tục có giá
trị sử dụng đến hết
thời hạn ghi trên
thẻ.
Thời gian qua, Luật Căn cước đã được triển khai thực hiện hiệu quả, tuy nhiên không ít người dân
vẫn còn thắc mắc về một số quy trình, thủ tục liên quan.
thì người dân có thể đến
cơ quan có thẩm quyền nơi
thường trú hoặc tạm trú để
thực hiện việc đăng ký. Đồng
thời, thủ tục thực hiện sẽ
giống nhau, khi đi làm thủ
tục người dân có thể mang
theo CMND hoặc CCCD”
- Thượng tá Nguyễn Ngọc
Hải nói.
Cũng theo Thượng tá
Nguyễn Ngọc Hải, đối với
trường hợp cấp thẻ căn cước
cho trẻ dưới 14 tuổi thì trẻ
hoặc người đại diện hợp pháp
(có thể là cha hoặc mẹ…)
được đề nghị cơ quan quản
lý căn cước cấp thẻ căn cước.
Trình tự, thủ tục cấp thẻ
căn cước được thực hiện
như sau: Trẻ từ đủ sáu tuổi
đến dưới 14 tuổi đến cơ quan
quản lý căn cước để thu nhận
thông tin nhân dạng và thông
tin sinh trắc học, thực hiện
thủ tục giống như những
người từ đủ 14 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, trẻ phải đi cùng
người đại diện hợp pháp để
thực hiện thủ tục. Người đại
diện hợp pháp của trẻ sẽ thực
hiện thủ tục cấp thẻ căn cước
thay cho người đó.
Đối với trẻ dưới sáu tuổi,
do cơ quan quản lý căn cước
không thu nhận thông tin
nhân dạng và thông tin sinh
trắc học nên người đại diện
hợp pháp thực hiện thủ tục
cấp thẻ căn cước cho trẻ dưới
sáu tuổi thông qua cổng dịch
vụ công hoặc ứng dụng định
danh quốc gia.
Trường hợp trẻ dưới sáu
tuổi chưa đăng ký khai sinh
thì người đại diện hợp pháp
thực hiện thủ tục cấp thẻ căn
cước thông qua các thủ tục
liên thông với đăng ký khai
sinh trên cổng dịch vụ công,
ứng dụng định danh quốc gia
hoặc trực tiếp tại cơ quan quản
lý căn cước.
Ngoài ra, trường hợp người
mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi
thì phải có người đại diện
hợp pháp hỗ trợ làm thủ tục
theo quy định.•
Xinđăngký kết hôn tại trại giam, được không?
Luật không cấmngười đang chấp hành án phạt tù kết hôn. Tuy nhiên, để thực hiện được các thủ tục đăng ký kết hôn
trong trường hợp này rất khó khả thi.
Con trai tôi hiện đang chấp hành
án phạt tù ở trại giam. Hiện giờ cháu mong muốn kết hôn
theo kế hoạch.
Xin hỏi trong trường hợp này thì gia đình tôi có thể
xin để cô dâu vào trại giam và hai bên đăng ký kết hôn
được không?
Bạn đọc
Minh Dân
(Long An)
ThS
Nguyễn Phương Ân
, giảng viên khoa Luật dân sự,
Trường ĐH Luật TP.HCM, trả lời: Kết hôn là một trong
những quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp năm
2013 ghi nhận tại Điều 36: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly
hôn”; đồng thời được cụ thể hóa trong BLDS 2015, Luật
Hôn nhân và gia đình 2014, Luật Hộ tịch 2014.
Cụ thể, nếu cá nhân đáp ứng đầy đủ các quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn tại các điểm a, b, c, d khoản
2 Điều 5, Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (không
vi phạm điều cấm, đã đủ tuổi đăng ký kết hôn, không bị
mất năng lực hành vi dân sự...) thì có quyền kết hôn.
Có thể thấy pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành
không có quy định về việc cấm người đang chấp hành án
phạt tù kết hôn.
Như vậy, BLHS hiện hành cũng không có quy định nào
điều chỉnh việc người đang chấp hành hình phạt tù thì bị
tước quyền kết hôn.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 6, khoản 1
Điều 18; Điều 37 Luật Hộ tịch năm 2014; khoản 1 Điều 2
Thông tư 04/2020/TT-BTP thì khi thực hiện thủ tục đăng ký
kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt tại cơ quan đăng ký
hộ tịch, không được ủy quyền cho người khác. Đồng thời,
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 cũng không quy định
việc trích xuất phạm nhân để thực hiện đăng ký kết hôn.
Vậy câu hỏi đặt ra, trường hợp này có thể để người nữ
vào trại giam và hai bên đăng ký kết hôn được không?
Hiện nay, vẫn có trường hợp ngoại lệ khi nam và nữ
có thể không đến cơ quan đăng ký hộ tịch nhưng vẫn
được UBND cấp xã tiến hành đăng ký kết hôn lưu động.
Những trường hợp đặc biệt này được quy định tại Điều
24 Thông tư 04/2020/TT-BTP, khi “hai bên nam, nữ
cùng thường trú trên địa bàn cấp xã mà một hoặc cả hai
bên nam, nữ là người khuyết tật, ốm bệnh không thể đi
đăng ký kết hôn được”.
Như vậy, quy định pháp luật chỉ tạo điều kiện trong
trường hợp trên, không thể hiện trường hợp kết hôn lưu
động đối với phạm nhân.
Như vậy, có thể thấy pháp luật hôn nhân và gia đình, luật
khác có liên quan không cấm người đang chấp hành án phạt
tù kết hôn. Tuy nhiên, để thực hiện được các thủ tục đăng
ký kết hôn trong trường hợp này là rất khó khả thi.
Việc đăng ký kết hôn lưu động trong trường hợp này
(nếu có đơn đề nghị trại giam và UBND cấp xã nơi cư
trú) có tiến hành được hay không còn tùy thuộc vào tình
hình thực tế, sự chấp thuận, tạo điều kiện của cơ sở giam
giữ và sự chấp thuận, hỗ trợ của cơ quan đăng ký hộ tịch.
QUỲNH LINH
Người dân thực hiện thủ tục cấp thẻ căn cước tại Công an TP ThủĐức. Ảnh: HUỲNHTHƠ