8
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Sáu 13-9-2024
K Ỷ N I Ệ M 7 9 N Ă M N G À Y T R U Y Ề N T H Ố N G T Ò A
án là một công việc khó khăn. Lẽ
công bằng trong các phán quyết
của tòa án bao giờ cũng phải cụ
thể. Một phán quyết có chứa đựng
trong nó lẽ công bằng hay không
chỉ có thể nhận diện được một cách
rõ ràng tại những thời điểm nhất
định theo quy luật thời gian. Như
vậy, có hai phạm trù luôn tồn tại
khách quan và ảnh hưởng đến lẽ
công bằng trong một phán quyết
của tòa án, đó là không gian và
thời gian.
Lẽ công bằng trong một phán
quyết tồn tại trong một không gian
và thời gian nhất định (có thể ngắn
hoặc dài) nhưng có một điều chắc
chắn là nó không tồn tại ngoài
không gian và thời gian cụ thể. Lẽ
công bằng trong phán quyết của tòa
án chính là bản án, quyết định đó
phù hợp với lẽ phải và lương tâm,
được sự tán đồng của đa số cộng
đồng mà phán quyết ảnh hưởng.
Trách nhiệm pháp lý
của thẩm phán
So với các loại nguồn khác thì văn
bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)
là loại nguồn được ưu tiên áp dụng
đầu tiên. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, việc áp dụng VBQPPL
để giải quyết tranh chấp dân sự lại
không đảm bảo công lý. Ngược lại,
áp dụng lẽ công bằng thì mới đảm
bảo công lý. Thế nhưng, liệu tòa
án có “dũng cảm” áp dụng lẽ công
bằng mà bỏ qua các quy tắc xử sự
chung chứa đựng trong VBQPPL?
Mặc dù ngạn ngữ Latinh có câu
“lex iniusta non est lex”, tức “luật
không công bằng thì không phải là
luật” nhưng áp dụng lẽ công bằng
trong hoạt động xét xử là một điều
quá mới mẻ với truyền thống pháp
lý lẫn thực tiễn xét xử của Việt
Nam. Bên cạnh đó, Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm2020) quy định về nguyên
tắc áp dụng VBQPPL đang có hiệu
lực pháp luật. Trong tương quan
này, lẽ công bằng sẽ không được
áp dụng dẫu biết rằng phán quyết
của tòa án có thể không thấu tình,
đạt lý. Ngoài ra, nếu thẩm phán ra
bản án mà biết rõ là trái pháp luật
thì có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Từ đây có thể hiểu việc áp
dụng lẽ công bằng trong hoạt động
xét xử sẽ không thể trở thành hiện
thực vì bị ngăn cản bởi quy định
của pháp luật thành văn.
Theo Điều 103 Hiến pháp năm
2013 thì khi xét xử, thẩm phán độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật. Như
vậy, khi không có điều luật để áp
dụng và chỉ giải quyết theo lẽ công
bằng thì thẩm phán độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật là như thế nào?
Đồng thời, giả sử sau khi tòa xét
xử sơ thẩm, trường hợp đủ căn cứ
để kháng cáo, kháng nghị thì khi
giải quyết theo lẽ công bằng, liệu
đương sự có quyền kháng cáo,
VKS có quyền kháng nghị không?
Câu hỏi này cũng không dễ trả lời
nhưng chắc chắn nó là một thách
thức không nhỏ trong tiến trình
áp dụng lẽ công bằng vào hoạt
động xét xử.
Những thách thức
phải vượt qua
Xét một cách toàn diện, loại nguồn
pháp luật nào cũng có cả tính ưu
việt lẫn hạn chế và việc sử dụng
loại nguồn nào cũng phụ thuộc vào
nhiều điều kiện khách quan lẫn chủ
quan. Chính vì vậy, việc thừa nhận
và sử dụng đa dạng các loại nguồn
của pháp luật (trong đó có lẽ công
bằng) là điều cần thiết.
Muốn giải quyết tranh chấp dân
sự theo lẽ công bằng thì cần phải
trăn trở, suy tư về vụ, việc đó. Vì
vậy, việc áp dụng lẽ công bằng
buộc phải đặt trong một vụ, việc
cụ thể, gắn với các sự kiện pháp lý
nhất định. Chính vì phải đặt trong
một vụ, việc cụ thể, gắn với các
sự kiện pháp lý nhất định nên vấn
đề áp dụng lẽ công bằng mới trở
nên chính xác, thấu đáo. Nói cách
khác, lẽ công bằng được áp dụng
TS CAOVŨMINH(*)
C
ùng với việc chính thức thừa
nhận nguyên tắc “bất khẳng
thụ lý” (tòa án không được từ
chối thụ lý giải quyết tranh chấp
của các đương sự), pháp luật Việt
Nam đã ghi nhận những loại nguồn
khác nhau làm cơ sở cho tòa giải
quyết các vụ, việc dân sự.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập
pháp, nhà làm luật đã quy định về
việc áp dụng lẽ công bằng trong
hoạt động xét xử vụ, việc dân sự.
Thứ tự ưu tiên áp dụng các
loại nguồn của pháp luật
Điều 5 và Điều 6 BLDS năm
2015 xác định thứ tự ưu tiên áp
dụng các loại nguồn của pháp luật
trong hoạt động xét xử vụ, việc dân
sự của tòa án: I. quy phạm pháp
luật, ii. tập quán, iii. áp dụng tương
tự pháp luật, iv. các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật dân sự, v. án lệ,
vi. lẽ công bằng.
Lẽ công bằng được xem là loại
nguồn cuối cùng được áp dụng khi
các nguồn khác đã được sử dụng
nhưng không phát huy được hiệu
quả của việc bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
con người trong pháp luật dân sự.
Về mặt nhận thức, lẽ công bằng
được hiểu là đúng lẽ phải, phù hợp
với những chuẩn mực chung của
xã hội và được sự đồng thuận của
mọi người. Lẽ công bằng cũng
có thể là sự phù hợp với đạo đức,
phong tục, thói quen, phù hợp với
lợi ích của cộng đồng nói chung.
Điều 45 BLTTDS năm 2015 cũng
quy định: “Lẽ công bằng được xác
định trên cơ sở lẽ phải được mọi
người trong xã hội thừa nhận, phù
hợp với nguyên tắc nhân đạo, không
thiên vị và bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ của các đương sự trong
vụ, việc dân sự đó”.
Với quy định của pháp luật vừa
nêu thì xác định lẽ công bằng chung
chung trong các phán quyết của tòa
TANDTP.HCMký kết quy chế phối hợp với VKSNDTP trong giải quyết các vụ án hành chính, dân sự. Ảnh: HOÀNGGIANG
là kết quả của việc giải quyết một
tranh chấp nhất định mà theo phân
công chức năng trong bộ máy nhà
nước thì chính tòa là cơ quan có
thẩm quyền giải quyết.
Chỉ có xuất phát từ những vụ,
việc thực tế thì đòi hỏi áp dụng lẽ
công bằng mới trở nên cấp thiết.
Khi “đáo tụng đình”, hai bên tranh
chấp luôn có động cơ rõ ràng để
thúc đẩy vụ, việc đi đến tận cùng.
Vì lẽ đó, tòa với vai trò cầm cân nảy
mực phải áp dụng các loại nguồn
khác nhau để giải quyết một cách
khách quan, công minh nhằm đưa
vụ, việc đó đến chân lý cuối cùng.
Quá trình giải quyết vụ, việc dân sự
cẩn trọng, công minh đòi hỏi tòa sử
dụng đến lẽ phải, tính khách quan,
tính hợp lý để giải quyết - tức là áp
dụng lẽ công bằng để giải quyết.
Tuy nhiên, để đáp ứng được những
kỳ vọng này thì vẫn còn đó những
thách thức cần phải vượt qua nhằm
đảm bảo cho việc áp dụng lẽ công
bằng trong thực tiễn xét xử vụ, việc
dân sự của tòa án.•
(*)
TS Cao Vũ Minh, Trưởng bộ
môn Luật Hành chính nhà
nước Trường ĐH Kinh tế -
Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM)
Giả sử sau khi tòa xét
xử sơ thẩm, trường hợp
đủ căn cứ để kháng cáo,
kháng nghị thì khi giải
quyết theo lẽ công bằng,
liệu đương sự có quyền
kháng cáo, VKS có quyền
kháng nghị không?
Mong tòa
mạnh dạn
áp dụng lẽ
công bằng
trong xét xử
Quá trình giải quyết vụ, việc dân sự
đòi hỏi tòa phải sử dụng đến lẽ phải,
tính khách quan, tính hợp lý để giải quyết
- tức là áp dụng lẽ công bằng để giải quyết.
Tôi trân trọng những cống hiến thầm lặng, tích cực
của các thế hệ cán bộ, thẩmphán của TAND quận Bình
Tân; đồng thời luôn không ngừng phấn đấu, tiếp tục
đóng góp vào sự phát triển của hệ thống TAND, góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế - xã
hội và được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng.
Là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra đối với TAND quận Bình Tân là tiếp tục
đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương, tư tưởng,
đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh về “phụng
công, thủ pháp, chí công, vô tư”; tăng cường kỷ luật, kỷ
cương trách nhiệmcông vụ gắn với phương châm“gần
dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.
Cụ thể,TANDquậnBìnhTân tiếp tục xâydựngkếhoạch
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị,
đảmbảo nguyên tắc tư pháp, sáng tạo, dámnghĩ, dám
làm, vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ cho thư ký,
thẩm phán; hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ.
TAND quận Bình Tân sẽ chú trọng ứng dụng và phát
triển côngnghệ thông tinđể thực hiệnnhiệmvụ chuyển
đổi số sâu rộng nhằmcông khai, minh bạch, liêmchính,
đảm bảo sự giám sát của nhân dân trong hoạt động
của tòa án: Tăng cường xét xử trực tuyến và công khai
bản án; tiếp tục đóng góp tình huống pháp lý để hoàn
thiện phần mềm trợ lý ảo tòa án; tiến tới góp phần xây
dựng hoàn thiện“tòa án điện tử”để phục vụ nhân dân
ngày càng tốt hơn.
Ông
NGUYỄN ĐỨC PHƯỚC
,
Chánh án TAND quận Bình Tân, TP.HCM
Chuyển đổi số sâu rộng, đảmbảo sự giámsát của nhân dân đối với tòa án
Điều kiện áp dụng
lẽ công bằng
Qua tham khảo thực tế các phán
quyết có viện dẫn lẽ công bằng thì
hầu như các phán quyết này đều dựa
trênnền tảngquyphạmpháp luật, tập
quán, áp dụng tương tự pháp luật, án
lệ, các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự.
Trong các trường hợp này, lẽ công
bằng được sử dụng với tính chất là
một thuộc tính của các loại nguồn
khác chứ không phải với tính chất là
loại nguồn cuối cùng được áp dụng
độc lập theo như mong muốn của
nhà làm luật.
Tiêu điểm