152-2016 - page 8

8
Pháp luật & Cuộc sống
TANDTP.HCM vừa xử phúc thẩm, hủy toànbộbản án
sơ thẩm, đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ôngHTVđối với
UBNDquậnBìnhTânvàmột trường tiểuhọc ởquận này.
Như chúng tôi từng phản ánh, ôngV. ký hợp đồng lao
động (thời hạnmột năm) làmgiáo viênmột trường tiểu học
ởquậnBìnhTân. Tháng 1-2011, UBND quận ra quyết định
tuyển dụng ông. Sauđó, ôngbị nhà trường chấm dứt hợp
đồng laođộng vì cho rằng ông thiếu tinh thần tráchnhiệm...
Tháng10-2011, UBND quận ra quyết định chấm dứt hợp
đồng laođộng và giải quyết các chế độđối với ông.
ÔngV. khởi kiện. Sau đó đại diệnUBNDquận và hiệu
trưởng trường tiểuhọc hứa nhận ông trở lại làmviệc và ký
hợp đồng không xác định thời hạn nên ông rút đơn. Tháng
11-2012, ôngV. và trường tiểu học ký hợp đồng lao động
không xác định thời hạn với chức vụ nhânviên giao nhận
thiết bị. Theo ôngV., nhà trường giải thích đây là côngviệc
tạm thời, sang năm sẽ choông giảng dạy. Nămhọc sau, ông
nhiều lần yêu cầu trường chogiảng dạy nhưng không được
chấp nhận. Tháng 10-2013, ôngnghỉ luôn, không vào làm
việc nữa. Tháng 11-2013, nhà trườngđã ra quyết định chấm
dứt hợp đồng lao động với ông.
ÔngV. khởi kiện yêu cầuTAND quậnBìnhTân buộc
UBND quận thu hồi quyết định chấm dứt hợp đồng lao
động thứ nhất, khôi phục công việc cho ông theo hợp đồng
này; yêu cầuUBNDquậnvà trường tiểuhọc phải xin lỗi,
bồi thường tổn thất tinh thần cho ông 50 triệuđồng... Ngoài
ra, ôngyêu cầu tòa hủy hợpđồng lao động thứ hai vì cho
rằng hợpđồngnày là giả tạo... Xử sơ thẩm, TAND quận
BìnhTân đã bác toànbộyêu cầukhởi kiện của ôngV. Ông
V. kháng cáo.
Theo tòa phúc thẩm, với hợp đồng laođộng thứnhất, ông
V. đã camkết khôngkhởi kiệnkhi nhà trườngnhậnông
quay lại làmviệc.Với hợpđồng lao động thứ hai, ôngV.
yêu cầu hủy và phía nhà trường cũng đã hủy trước đó. Như
vậy, đối tượng khởi kiệnkhông cònnên tòa tuyên như trên.
LỆTRINH
có 29 triệu đồng nhưH. thừa nhận.
Tuynhiên, chịC.khôngchứngminh
thực tế được số tài sản bị mất này.
Do giá trị tài sản mà T., H. và P.
trộm cắp được dưới 50 triệu đồng
nêncônganquậnđềnghị truy tốba
bị can về tội trộm cắp tài sản theo
khoản 1 Điều 138 BLHS (mức án
cao nhất đến ba năm tù).
Tuynhiên,VKSNDquậnSơnTrà
xác định chị C. bị mất trộm 50,7
triệu đồng tiền mặt và chiếc nhẫn
vàng loại 9,8K trị giá1,5 triệuđồng
như lờikhai củachị.Do tổngsố tiền
trộm cắp là hơn 50 triệu đồng nên
VKS truy tốbabị can theokhoản2
Điều 138 BLHS (mức án cao nhất
đến bảy năm tù).
Mới đây,TANDquậnSơnTràxử
sơ thẩm cũng căn cứ vào lời khai
của chị C. để kết luậnH. trộm cắp
của chị 50,7 triệu đồng tiềnmặt và
chiếcnhẫnvàng loại 9,8K.Tòaxác
định tổng cộng giá trị tài sản ba bị
cáo trộm cắp là 56,3 triệu đồng và
phạt H. 22 tháng tù, T. và P. cùng
mức án 30 tháng tù.
Bị hại khôngchứngminh
được, tòakhôngxét
Ởvụán trên,ngoài lờikhai củaH.
vàchịC. về số tiềnmặt bịmất trộm
thìkhôngcònchứngcứnàokhácđể
xác định rõ sự thật. VKS và tòa đã
căncứvào lờikhai củabịhạiđểxác
định tài sảnbịmất trộm.Tuynhiên,
trongmột số vụ án tương tự, nhiều
tòaánkhác lạicócáchgiảiquyết trái
ngược theonguyên tắc suyđoán có
lợi cho nghi can.
Chẳng hạn vụ Thái Trọng cùng
nămđồngphạm trộmvàngcủa tiệm
vàngNgọcDung (huyệnBùĐăng,
BìnhPhước)hồi tháng9-2014.Chủ
tiệmvàngkhaibáobịmất286 lượng
vàng18K(10,725kg),hai lượngvàng
24K (0,075kg)và25 triệuđồng tiền
mặt.Trongkhi đó, nhómcủaTrọng
saukhi bị bắt đềukhai rằng sốvàng
trộm cân được chỉ có 5,5 kg và đã
bánhết chomột người không rõ lai
lịch được 2,6 tỉ đồng.
Xửsơthẩm,TANDtỉnhBìnhPhước
phạt sáu bị cáo từ chín năm tù đến
14năm tù, buộc cácbị cáophải bồi
thườngchobịhại3,2 tỉđồng (tương
đương5,5kgvàng18K tại thờiđiểm
xétxửsơ thẩm).Bịhạikhángcáoyêu
cầu được bồi thường tài sản bị mất
đúngnhưđãkhaibáo.Tháng3-2016,
TANDCấpcao tạiTP.HCMđãyán
sơ thẩm.Theo tòaphúc thẩm, bị hại
không cung cấp được giấy tờ, hóa
đơn, chứng từ, sổ sách chứngminh
nguồn gốc số vàng, tiền bịmất nên
không có cơ sở xemxét.
Chứngminhtớiđâu,xửtớiđó
Traođổi với
PhápLuậtTP.HCM
,
luật sư (LS) Nguyễn Tấn Thanh
(Đoàn LS TP.HCM) ủng hộ việc
ápdụngnguyên tắc suyđoán có lợi
cho bị can, bị cáo trong các trường
hợp này. Theo ông, bi hai khai bi
mât như thếnhưng lai khôngchưng
minhđươcvaCQĐTcungkhôngco
căn cư chưngminhnênnêu chỉ căn
cứ vào lời khai của bị hại để kết án
bị cáo là không thuyết phục. Bởi lẽ
theopháp luậthiệnhành, lơikhaichi
đươcchâpnhânkhiphuhơpvơi cac
lơikhai, chưngcưva tai liêukhacco
liênquan trongvuan. “Chưngminh
tơi đâu thì xư ly tơi đova luônphai
tuân thunguyên tăc suyđoan co lơi
chobi caochưkhôngđươcsuyđoan
bât lơi” - LSThanhnói.
Đồng tình,LSTrươngĐìnhCông
Vĩnh (ĐoànLSTP.HCM) cũngcho
rằng một nguyên tắc xuyên suốt
trong tố tụnghình sự làkhôngđược
T.TÀI-L.TRINH
T
ối13-9-2015,LXTchạyxemáy
chở LNHH và PVP (cùng ngụ
phườngAnHải Tây, quậnSơn
Trà, Đà Nẵng) đi trộm cắp. Thấy
nhàchịĐTKCởcùngphườngvắng
người, cảbađi tìmxàbengcạycửa.
Xácđịnh tiềnmất trộm theo
lời khai bị hại
Sau đó, T. đứng ngoài cảnh giới,
H. và P. đột nhập vào lấy trộm hai
hộp nhựa đựng trang sức bằng kim
loạimàuvàngvàbạc,một xấp tiền,
một tờ tiền 50 USD, một laptop,
một ĐTDĐ.
Vềnhà,H.đưa tài sảnchoT.mang
đi cất giấuvà bánđể chia nhau tiêu
xài.Riêngxấp tiền thìH. giấu riêng.
Theo lời khai củaH. tại CQĐT sau
này, H. kiểm tra thì thấy có 58 tờ
tiềnmệnh giá 500.000 đồng (tổng
cộng 29 triệu đồng). H. đã tiêu xài
hết 1,5 triệu đồng.
Tối cùngngày, chịC.vềpháthiện
mất trộmbèn trìnhbáocôngan.Theo
khai báo của chị C., ngoài laptop
vàĐTDĐ, chị cònbịmất 50,7 triệu
đồng tiềnmặt,một chiếcnhẫnvàng
loại 9,8K trọng lượng 0,5 phân trị
giá 1,5 triệu đồng.
Kết quả định giá tài sản cho thấy
laptop trị giá2,6 triệuđồng,ĐTDĐ
trị giá 390.000đồng, tờ50USD trị
giá 1,05 triệu đồng. Riêng số trang
sức bằngkim loạimàuvàngvà bạc
là giả không có giá trị. Tổng giá trị
tài sảnnày là 4,12 triệuđồng.
CônganquậnSơnTràkết luậnviệc
chịC. khai ngoài laptop,ĐTDĐ, tờ
50 USD, chị còn bị mất 50,7 triệu
đồng tiền mặt và một chiếc nhẫn
vàng loại 9,8K chứ không phải chỉ
Xácđịnhtiền
mấttrộmtheo
bịcáohaybịhại?
Việcmộttòaándựavàolờikhaicủabịhạiđểxácđịnh
sốtiềnmấttrộmdùkhôngcóchứngcứkhácđãgây
nhiềutranhcãibởitrongcácvụtươngtự,nhiềutòalại
chấpnhậnlờikhaicủabịcáo...
VỤ “KIỆNNHÀ TRƯỜNGVÌ KHÔNGĐƯỢCĐỨNG LỚP”
TANDTP.HCMhủyánsơ thẩm, đìnhchỉ vụkiện
Theonhiềuchuyêngia,cơquan
tốtụngphảiápdụngnguyêntắc
suyđoáncó lợichonghican.
Một vụ tương tự
Tháng 7-2013, TrầnBéHai và LâmVănPhương trộm tài sản củabà LTH
(ngụquậnNinhKiều,CầnThơ). BàH. khai tổnggiá trị tài sảnbịmấtgần1 tỉ
đồnggồmnữtrangtrịgiá700triệuđồng,200triệuđồngtiềnmặtvàmộtsố
tài sảnkhác.Tại CQĐT, BéHai vàPhươngkhai có lấynữ trangvàcác tài sản
khácnhưbàH. trìnhbáo. Riêng200 triệuđồng tiềnmặt, BéHai khai không
lấy, Phươngkhai khôngbiết, khôngđượcchia.
Theokết quảgiámđịnh, sốnữ trangbịmất cógiá trị 177 triệuđồng. Xử
sơ thẩmhồi tháng3-2016, TANDquậnNinhKiều xácđịnh tổng tài sảnmà
hai bị cáo trộm trị giá196 triệuđồngvàphạtBéHai támnăm sáu tháng tù,
Phươngbảynămtù,buộchaibịcáophảibồithườngchobàH.196triệuđồng.
VKSNDquậnNinhKiềukhángnghịyêucầu tăngánvàbuộchaibị cáo trả
chobàH. 200 triệuđồng tiềnmặt. Tại phiênphúc thẩmhồi tháng5-2016
củaTANDTPCầnThơ, đại diệnVKSNDTP rút lại phầnkhángnghị buộchai
bị cáo trả chobàH. 200 triệuđồng tiềnmặt nên tòa không xét phầnnày,
chỉ chấpnhận khángnghị tăng án lênđối với Phương thành támnăm tù,
BéHai thành12năm tù.
Tiêu điểm
làmbất lợi cho tình trạngcủabị cáo
khi không có chứng cứ vững chắc.
Nghĩavụchứngminh tộiphạm làcủa
cơ quan tố tụng, đồng thời phần bị
hại cũngphải cónghĩavụ cung cấp
chứngcứchứngminh thiệt hại.Khi
không chứngminh được thì đương
nhiên bị can, bị cáo thừa nhận tới
đâu thì xử lý tới đó.
Theo LS Chu Văn Hưng (Đoàn
LSTP.HCM,nguyênkiểmsátviên),
thực tiễnxét xử cácvụ án tương tự,
dù thông cảm với hoàn cảnh của
bị hại, có niềm tin nội tâm rằng bị
hại khai thật nhưng khi không đủ
cơ sở kết luận, cơ quan tố tụng vẫn
phải chấp nhậnmức khai nhận của
bị can, bị cáo. “Không thể buộc bị
cáo chịu toàn bộ trách nhiệm theo
lờikhaiđơnphươngcủabịhại.Việc
cơ quan tố tụng chấp nhận lời khai
của bị hại như vụ án ởĐàNẵng là
một trườnghợpkháhiếmgặp” -LS
Hưngnhậnxét.
n
HaibịcáoTrầnBéHaivàLâmVănPhương
(giữa)
tạitòa(bịcáoHaithấyPVchụpảnh liềngiơtay... làmkiểu).
Ảnh:N.NAM
Vi phạm tố tụng
Trong vụ án ở Đà Nẵng, việc VKS
vàTANDquận SơnTrà chỉ căn cứ vào
lời khai củabị hại để xácđịnh số tiền
bị trộm là vi phạm khoản 2Điều 68
BLTTHS. Điều khoảnnàyquyđịnh rõ:
“khôngđượcdùnglàmchứngcứnhững
tìnhtiếtcủangườibịhại trìnhbàynếu
họ không thểnói rõ vì saobiết được
tình tiếtđó”.Điềunàyđượchiểu làkhi
lời khai củabị hại không có cơ sởđể
chứngminh thì khôngđược cơquan
tố tụngchấpnhận.
ThS
TỪTHANHTHẢO
,
TrườngĐHLuậtTP.HCM
1,2,3,4,5,6,7 9,10,11,12,13,14,15,16
Powered by FlippingBook