098-2020 - page 5

5
Thời sự -
Thứ Tư 6-5-2020
ĐỖTHIỆN
thực hiện
T
rong kỳ 2 -
Công hàm Phạm
Văn Đồng dưới ánh sáng luật
quốc tế
, PGS-TSVũ Thanh Ca,
nguyênVụ trưởngVụ Hợp tác quốc
tế và khoa học công nghệ, Tổng
cục Biển và Hải đảo Việt Nam,
kết luận: Phân tích theo luật pháp
quốc tế, dựa vào nội dung và bối
cảnh ra đời, có thể khẳng định công
hàm Phạm Văn Đồng (CHPVĐ)
không thể hiện sự công nhận của
phía Việt Nam đối với chủ quyền
của Trung Quốc (TQ) trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đồng thời, PGS-TSVũ Thanh Ca
cho biết Việt Nam không chỉ thực
hiện chủ quyền liên tục ở Trường Sa
và Hoàng Sa giai đoạn chiến tranh
với Pháp (1946-1954), mà còn từ
sau đó cho đến hiện nay.
Việt Nam thực thi chủ quyền
liên tục 1954-1975…
.
Phóng viên
:
Ngày 21-7-1954,
Hiệp định Geneva được ký. Sự kiện
này ảnh hưởng thế nào đến việc
thực thi chủ quyền với Trường Sa,
Hoàng Sa?
+ PGS-TS
Vũ Thanh Ca
: Theo
Hiệp định Geneva, lãnh thổ Việt
Nam tạm chia thành hai vùng:
Miền Bắc do Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (VNDCCH) kiểm soát,
miền Nam do Liên hiệp Pháp và
các lực lượng thân Pháp, trong đó
có Quốc gia Việt Nam (QGVN),
kiểm soát. Ranh giới tạm thời là
vĩ tuyến 17.
Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình
Diệmphế truất Quốc trưởngBảoĐại
và lên làm quốc trưởng của QGVN.
Sau đó, QGVN đổi tên thành Việt
Nam Cộng hòa (VNCH) do Ngô
Đình Diệm làm tổng thống. Năm
1956, quân đội VNCH đã trú đóng
ở phần phía tây quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa. Như vậy,
vào năm 1958, chính VNCH (chứ
không phải VNDCCH) là thực thể
chính trị duy nhất thực sự thực thi
chủ quyền với hai quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa.
Vậy nên, dù công hàm của Thủ
tướng PhạmVăn Đồng (người đứng
đầu Chính phủ VNDCCH) không
thể hiện sự phản đối trực tiếp tuyên
bố chủ quyền của TQ đối với hai
quần đảo (vì VNDCCH không
phải là thực thể chính trị thực thi
chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa) nhưng sự không
phản đối đó không tạo ra bất cứ
cơ sở pháp lý nào để nói rằng Việt
Nam đã mặc nhiên công nhận chủ
quyền của TQ.
. Xin ông giải thích rõ hơn về
tính chính danh của VNCH trong
việc thực thi chủ quyền đối với hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa?
+ Theo Công ước Montevideo
1933 về quyền và nghĩa vụ của các
quốc gia, “một quốc gia là một chủ
thể của luật quốc tế, đáp ứng đầy
đủ các tiêu chuẩn về: có dân cư ổn
định, có lãnh thổ xác định, có chính
phủ và có khả năng tham gia vào
các quan hệ quốc tế” và “sự tồn tại
về chính trị của các quốc gia độc
lập với sự công nhận của các quốc
gia khác”.
Giai đoạn 1954-1975, chiếu
theo Công ước Montevideo 1933,
trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại hai
thực thể chính trị với tư cách quốc
gia: VNDCCH và VNCH. Vấn
đề quan trọng nằm ở chỗ: Dù các
nước có tuyên bố công nhận hay
không công nhận tư cách quốc
gia của VNDCCH hay VNCH
thì điều đó cũng không làm ảnh
hưởng tư cách quốc gia của họ.
Như vậy, theo luật pháp quốc tế,
VNCH hoàn toàn có tư cách quốc
gia để thực thi chủ quyền với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
còn VNDCCH thì trong thời gian
đó không có thẩm quyền với hai
quần đảo này.
Như vậy, VNDCCH không nhất
thiết phải tuyên bố phản đối tuyên
30-4-1975, CHMNVN đã thay thế
VNCH và trở thành thể chế chính
trị duy nhất đại diện cho nhân dân
miền Nam.
Vì vậy, CHMNVN có quyền và
trong thực tế đã kế thừa một cách
hợp pháp chủ quyền của VNCH
đối với hai quần đảo Trường Sa,
Hoàng Sa. Chính TQ cũng là một
trong những quốc gia đầu tiên công
nhậnCHMNVN là đại diện duy nhất
của nhân dân miền NamViệt Nam.
Do vậy, TQ cũng đã gián tiếp công
nhận rằng theo luật pháp quốc tế,
sau khi tiếp nhận sự đầu hàng của
VNCH, CHMNVN đã chính thức
kế thừa chủ quyền đối với hai quần
đảo nói trên.
. Sự chuyển giao chủ quyền sang
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (chính là Việt Nam ngày nay)
thực hiện ra sao?
+ Năm 1976 đã diễn ra cuộc tổng
tuyển cử, thống nhất đất nước Việt
Nam. Toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ
còn một quốc gia với chính quyền
duy nhất là Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đó cũng là dấu
mốc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam kế thừa chủ quyền hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
từ CHMNVN (chứ không phải từ
VNDCCH, vì thực thể chính trị này
không có thẩmquyền và không được
giao quản lý hai quần đảo.)
Như vậy, việc kế thừa chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã được thực
hiện theo đúng luật pháp quốc tế.
Điều đó một lần nữa khẳng định
rằng CHPVĐ 1958 không có giá
trị pháp lý và không ảnh hưởng tới
chủ quyền của Việt Nam trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Mưu đồ của Trung Quốc
. Gần đây TQ liên tục đưa công
hàm lên LHQ, trích dẫn CHPVĐ
năm 1958 và cáo buộc Việt Nam
vi phạm nguyên tắc Estoppel. Ông
lý giải thế nào về điều này?
+ Tôi có thể khẳng định ngayViệt
Nam không vi phạm nguyên tắc
Estoppel. Estoppel là một nguyên
tắc của luật pháp quốc tế, có nghĩa
là một chủ thể luật pháp (người
hoặc cơ quan, tổ chức, quốc gia)
không được phép nói hoặc hành
động ngược lại với những gì mình
đã nói hoặc hành động trước đó.
Có nhiều học giả đã bàn luận về
việc áp dụng nguyên tắc Estoppel
cho trường hợp CHPVĐ. Đáng kể
nhất là thảo luận của tiến sĩ-luật sư
Từ Đặng Minh Thu. Theo đó, căn
cứ vào thực tiễn quốc tế và các án lệ
của các tòa án quốc tế, muốn chứng
minh Việt Nam vi phạm nguyên tắc
Estoppel thì phải chứng minh rằng
CHPVĐ có ý định và nói rõ ràng
rằng chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc
TQ; và điều này phải được nói một
cách liên tục và có hệ thống.
Tuy nhiên, như tôi đã phân tích
ở hai kỳ trước, CHPVĐ ngoài việc
ủng hộ quan điểm vùng lãnh hải
rộng 12 hải lý thì hoàn toàn không
đả động đến hai quần đảo Hoàng Sa
vàTrường Sa. Thêmnữa, VNDCCH
càng không nói một cách liên tục
và có hệ thống rằng chủ quyền trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là thuộc TQ. Mặt khác, hai quần
đảo này lúc đó thuộc VNCH quản
lý, thế nên VNDCCH không có
quyền có những tuyên bố về chủ
quyền với hai quần đảo.
. TQ có mưu đồ gì khi năm lần
bảy lượt đưa CHPVĐ lên LHQ?
+ TQ cố tình suy diễn CHPVĐ
để tranh giành lợi thế, cố tình bẻ
cong sự thật, bẻ cong pháp luật,
kể cả Công ước LHQ về Luật Biển
(UNCLOS) năm 1982 mà nước
này cũng là thành viên. Tuy nhiên,
phái đoàn thường trực Việt Nam tại
LHQ đã nhiều lần gửi công hàm,
điển hình là Công hàm sốA/72/692
ngày 30-1-2018 để phản đối TQ và
nêu rõ lập trường của Việt Nam.
Giới quan sát trong và ngoài nước
có nhiều bài viết về CHPVĐ. Hầu
như tất cả bài viết đó đều dùng những
lập luận của luật pháp quốc tế để
làm rõ tính pháp lý của CHPVĐ,
đồng thời chứng minh sự liên tục
của chủ quyền Việt Nam trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
làm thất bại âm mưu của TQ.
.
Xin cám ơn ông.
TrungQuốc xuyên tạc lịch sử nhằmbảo vệ yêu sách chủ quyền phi pháp và những hành vi sai trái ở BiểnĐông.
Ảnh lớn:
Tàu địa chất Hải dương 8 của TrungQuốc xâmphạmcác vùng biển Việt Namcuối năm2019. Ảnh: SCHOTTEL
Ảnh nhỏ:
Yêu sách đường lưỡi bò phi pháp của TrungQuốc chiếmhơn 80%BiểnĐông. Yêu sách này đã bị phán quyết của
Tòa Trọng tài 2016 bác bỏ cơ sở pháp lý. Ảnh: CSIS
Trung Quốc cố ý xuyên tạc
công hàm Phạm Văn Đồng
Công hàm củaThủ tướng PhạmVănĐồng năm1958 không làmảnh hưởng quá trình
thực thi chủ quyền liên tục của Việt Namđối với Hoàng Sa và Trường Sa.
bố chủ quyền của TQ năm 1958 và
sự im lặng củaVNDCCH trong thời
gian này không làm yếu đi danh
nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo.
… và từ 1975 cho đến nay
. Từ năm 1975 đã có sự thay đổi
về chính quyền trên lãnh thổ Việt
Nam. Việc thay đổi này có quan hệ
thế nào với việc thực thi chủ quyền
theo luật?
+ Công ước Montevideo 1933
quy định sự thay đổi chính quyền
không làm thay đổi quốc gia. Theo
quy định của tập quán quốc tế, đặc
biệt là Hiến chương Liên Hợp Quốc
(LHQ), việc lựa chọn một chính
quyền để đại diện cho toàn thể nhân
dân trên một quốc gia hoặc vùng
lãnh thổ nào đó là quyền tự quyết
của nhân dân sống trong quốc gia và
vùng lãnh thổ đó. Khi trên một lãnh
thổ quốc gia có một chính quyền bị
thay thế bởi một chính quyền khác,
chính quyền mới sẽ kế thừa các di
sản của chính quyền trước đó, kể
cả lãnh thổ, các hiệp ước, tư cách
thành viên trong các tổ chức quốc
tế, các khoản nợ…
Cuộc chiến tranh giải phóng
miền Nam từ sau khi ra đời Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam vào năm 1960 và kết thúc
bằng chiến thắng ngày 30-4-1975
và thành lập Cộng hòa miền Nam
Việt Nam (CHMNVN) thực chất là
việc thực hiện quyền tự quyết của
nhân dân miền Nam trong việc lựa
chọn chế độ chính trị theo đúng các
quy định của luật pháp quốc tế. Sau
Việc kế thừa chủ quyền
trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa
của Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã được
thực hiện theo đúng luật
pháp quốc tế.
Bẻ gãy luận điệu
Trung Quốc ở
Liên Hợp Quốc
- Bài cuối
1,2,3,4 6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,...20
Powered by FlippingBook