239-2020 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứBảy17-10-2020
Sự phù hợp của chính sách trong
đề nghị xây dựng văn bản và nội
dung dự thảo văn bản với đường
lối, chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước.
Luật đã bổ sung và làm rõ quy
định về phản biện xã hội củaMTTQ
Việt Nam trong quy trình xây dựng,
ban hành VBQPPL. Hiện nay, việc
phản biện xã hội đối với dự thảo
VBQPPL của Mặt trận được thực
hiện theo Luật MTTQViệt Nam và
Nghị quyết liên tịch số 403/2017.
Tuy nhiên, việc phản biện của cơ
quan này đối với dự thảo VBQPPL
chưa được quy định trong Luật Ban
hành VBQPPL.
Đặc biệt, luật sửa đổi đã bổ sung
hình thức nghị quyết liên tịch giữa
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ với Đoàn chủ tịch Ủy banTrung
ương MTTQ Việt Nam. Lý do là
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015
chưa quy định hình thức này nhưng
trên thực tế đã phát sinh việc ban
hành nghị quyết liên tịch.
Theo Bộ Tư pháp, luật còn bổ
sung hình thức thông tư liên tịch
giữa chánh án TAND Tối cao, viện
trưởngVKSNDTối cao, tổng Kiểm
toánNhà nước, bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ.
Theo quy định tại BLTTHS, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Kiểm toán Nhà nước và Luật
Phòng, chống tham nhũng thì Kiểm
toán Nhà nước có trách nhiệm phối
hợp khi phát hiện vụ việc có dấu
hiệu của tội phạm. Cơ quan này
phối hợp khi chuyển hồ sơ, tài liệu
có liên quan và kiến nghị xem xét,
khởi tố vụ án hình sự.
Tuy nhiên, theo Luật Ban hành
VBQPPLcũ thì tổngKiểm toánNhà
nước không có thẩm quyền liên tịch
ban hành thông tư. Vì thế, việc phối
hợp giữa Kiểm toán Nhà nước với
các cơ quan gặp nhiều khó khăn,
làm giảm hiệu lực, hiệu quả phòng,
chống tham nhũng nói chung và vai
trò, trách nhiệm của Kiểm toán Nhà
nước nói riêng.
Khi nào ban hành
văn bản rút gọn?
Luật Ban hành VBQPPL 2015
đã quy định việc áp dụng trình tự,
thủ tục rút gọn. Thời gian qua đã
phát sinh một số trường hợp cần
phải ban hành ngay văn bản để xử
lý các vấn đề phát sinh trong thực
tiễn. Đó là trường hợp ban hành văn
bản để bãi bỏ VBQPPL trái pháp
luật hoặc không còn phù hợp; kéo
dài thời gian thực hiện văn bản.
Ngoài ra, cần ban hành thông tư để
giải quyết những vấn đề cấp bách
phát sinh trong thực tiễn như điều
chỉnh giá xăng dầu, lệ phí trước bạ
ô tô, xe máy...
Để khắc phục, luật năm 2020
NGÂNNGA
N
gày 16-10, Bộ Tư pháp tổ
chức hội nghị trực tuyến triển
khai thi hành Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL). Theo đó, ngày 18-6
vừa qua, tại kỳ họp thứ 9, Quốc
hội khóa XIV đã thông qua luật
này và ngày 1-7, Chủ tịch nước đã
ký lệnh công bố luật có hiệu lực từ
ngày 1-1-2021.
Bổ sung, sửa đổi nhiều
điểm mới
Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung
54 điều về nội dung và 14 điều về
kỹ thuật so với luật năm 2015. Cụ
thể, luật đã sửa đổi, bổ sung sáu
điều, trong đó bổ sung nội dung
thẩm định, thẩm tra phải bảo đảm:
Quang cảnh hội nghị trực tuyến ở điểmcầu tại TP.HCM. Ảnh: NGÂNNGA
3 trường hợp
được ban
hành văn bản
rút gọn
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn
bản quy phạmpháp luật (có hiệu lực từ
ngày 1-1-2021) quy định ba trường hợp
được ban hành văn bản rút gọn.
đã sửa đổi, bổ sung các quy định
liên quan đến việc xây dựng, ban
hành VBQPPL theo trình tự, thủ
tục rút gọn. Cụ thể là sửa đổi, bổ
sung Điều 146, theo đó bổ sung
ba trường hợp được xây dựng, ban
hành VBQPPL theo trình tự, thủ
tục rút gọn.
Thứ nhất là bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộVBQPPL trái pháp luật hoặc
không còn phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế - xã hội. Thứ hai
là kéo dài thời hạn áp dụng toàn
bộ hoặc một phần của VBQPPL
trong một thời hạn nhất định để giải
quyết những vấn đề cấp bách phát
sinh trong thực tiễn. Thứ ba là ban
hành ngay VBQPPL để thực hiện
điều ước quốc tế có liên quan mà
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
Theo Bộ Tư pháp, một vấn đề rất
mới trong thủ tục rút gọn là ở trung
ương hiện nay, đối với thông tư cho
phép áp dụng thủ tục rút gọn, thông
tư của bộ trưởng cho phép thủ tục
rút gọn nhưng có sự kiểm soát.
Đối với thông tư mà quy định
về những văn bản quy định vấn đề
giải quyết phát sinh từ thực tiễn ở
khoản 1 Điều 46 thì phải xin ý kiến
Thủ tướng Chính phủ. Trước khi
xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ
thì phải có ý kiến Bộ Tư pháp, đây
là điểm mới.•
Quá trình sửa đổi Nghị định số 34/2016 (quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành
VBQPPL) đề nghị Bộ Tư pháp xem xét, bổ sung một số
tình huống như trường hợp HĐND, UBND mà khuyết
chức danh chủ tịch thì việc ký như thế nào?
Ví dụ, đối với UBND thì chủ tịch ký chứng thực, tuy
nhiên trong nghị quyết Văn phòng Chủ tịch Quốc hội
hướng dẫn HĐND các cấp thì cũng có quy định trường
hợp nào phó chủ tịch ký thực hiện theo quyền của chủ
tịch. Cũng có trường hợp còn đang vướng, đặc biệt có
trường hợp là VBQPPL.
Chẳng hạn, hiện nay chúng tôi đang khuyết chức
danh chủ tịchHĐND tỉnh hay cũng có thời điểmkhuyết
chức danh chủ tịch UBND tỉnh. Tuy nhiên, lại không có
văn bản giao quyền củaThủ tướng Chính phủ chomột
người thực hiện quyền của chủ tịchUBND tỉnh, vậy phó
chủ tịch sẽ ký như thế nào?
Một đại diện của tỉnhTuyên Quang
trao đổi tại hội nghị
Khuyết chủ tịch, việc ký ra sao?
Luật Ban hành
VBQPPL năm 2020 sửa
đổi, bổ sung 54 điều về
nội dung và 14 điều về
kỹ thuật so với luật
năm 2015.
Ánbị khángnghị vì bỏ qua tình tiết phạmtội nhiều lần
Ngày 16-10, TAND Cấp cao TP.HCM xử phúc thẩm,
tuyên bị cáo Nguyễn Thị Hồng Hạnh (sinh năm 1977) 16
năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Trước đó, Hạnh bị TAND tỉnh Bến Tre xử sơ thẩm,
tuyên phạt 15 năm tù về tội danh trên.
Bị cáo Hạnh sau đó có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt. VKSND tỉnh Bến Tre có kháng nghị cho rằng TAND
cùng cấp không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự và không tịch thu của bị cáo 3 triệu đồng.
Theo hồ sơ, tháng 3-2020, tại quán cà phê thuộc xã
Hưng Khánh Trung A, huyện Mỏ Cày Bắc (Bến Tre),
công an bắt quả tang Hạnh có hành vi bán 0,0514 g ma
túy cho Lê Anh Luân.
Khám xét chỗ ở của Hạnh, công an thu giữ hơn 30,2 g
ma túy. Ngoài lần bị bắt quả tang, Hạnh khai nhận đã bán
ma túy cho nhiều người nghiện, trong đó bán cho Luân
hai lần, Đạt ba lần, thu lợi bất chính 3 triệu đồng.
Quyết định kháng nghị nêu: Tòa cấp sơ thẩm cho rằng
bị cáo Hạnh mua ma túy về để bán lại nên truy tố theo
định khung tăng nặng bởi yếu tố định lượng là khối lượng.
Tòa không áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản
1 Điều 52 BLHS (phạm tội hai lần trở lên) là chưa phù
hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Bởi lẽ bị cáo bán ma túy cho Lê Anh Luân bị bắt quả
tang ngày 1-3-2020, khám xét chỗ ở thu giữ hơn 30,2 g
ma túy. Trước đó Hạnh mua ma túy của một người tên Dì
Ba, sau đó bán lại cho nhiều người nghiện nhưng chỉ xác
định được bán năm lần cho hai người. Tình tiết này cho
thấy bị cáo phạm tội hai lần trở lên.
Với số tiền 3 triệu đồng thu lợi bất chính trong việc mua bán
ma túy, VKSND tỉnh nhận thấy tòa sơ thẩm cho rằng không đủ
cơ sở thu giữ số tiền trên là không có căn cứ. Bởi lẽ quá trình
điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Hạnh thừa nhận trong
tháng 2-2020 đã ba lần mua ma túy của người tên Dì Ba, bán
cho nhiều người thu lợi 3 triệu đồng.
Vì vậy, VKSND tỉnh đề nghị tòa phúc thẩm áp dụng
tình tiết tăng nặng, tăng hình phạt đối với Hạnh và tuyên
tịch thu 3 triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.
Tòa phúc thẩm nhận định bị cáo đã bán ma túy cho
nhiều đối tượng, nhiều lần nhưng chỉ xác định được hai
đối tượng. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc
trường hợp tăng nặng, được quy định tại điểm g khoản 1
Điều 52 BLHS là phạm tội hai lần trở lên.
Do đó khi quyết định hình phạt, ngoài việc xem xét các
tình tiết giảm nhẹ, cấp sơ thẩm phải áp dụng tình tiết tăng
nặng trên. Kháng nghị của viện trưởng VKS xử phạt tăng
nặng đối với bị cáo, mức án 16-18 năm tù là có căn cứ.
HĐXX chấp nhận kháng nghị.
Cạnh đó, đối với số tiền thu lợi bất chính do hành vi mua
bán ma túy có được, bị cáo đã khai rõ nhưng cấp sơ thẩm
cho rằng chưa đủ cơ sở để chứng minh bị cáo thu lợi bất
chính nên không tịch thu là không đúng. Nội dung kháng
nghị này cũng có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận.
Hành vi phạm tội là đặc biệt nghiêm trọng, tại phiên tòa
bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt
nào khác ngoài những tình tiết cấp sơ thẩm đã áp dụng.
Do đó, yêu cầu của kháng cáo là không có căn cứ, không
được HĐXX chấp nhận.
Từ đó, HĐXX tuyên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo,
chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh Bến Tre.
CÙ HIỀN
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook