6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứHai 2-11-2020
TAND Tối cao vừa ra thông báo về giải quyết đơn đề
nghị giám đốc thẩm vụ án liên quan đến kỹ sư Bùi Hải
Nhân (
Pháp Luật TP.HCM
thường gọi là vụ án đường Hồ
Chí Minh).
Theo thông báo, TAND Tối cao đã nhận được đơn của
ông Bùi Hải Nhân và năm người khác trong vụ án đề nghị
xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án của
TAND Cấp cao tại Đà Nẵng. Trong đơn, sáu bị án cho
rằng tòa phúc thẩm kết án họ về tội lợi dụng chức vụ,
Nói lời
sau
cùng
tại tòa
phúc
thẩm,
nhiều
bị cáo
đã bật
khóc.
Ảnh:
NGÂN
NGA
QuanđiểmcủaTANDTối cao về vụánđườngHồChíMinh
quyền hạn trong khi thi hành công vụ và tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là không đúng.
Tuy nhiên, Tòa Tối cao cho rằng khi thực hiện nổ mìn,
Nhân trực tiếp chỉ huy việc nổ mìn, phá đá nhưng không
áp dụng phương án nổ mìn đặc biệt mà tự ý thay đổi
phương pháp khác về định mức và loại vật liệu nổ… Hậu
quả, Nhân và những người trong vụ án đã gây thiệt hại
cho Nhà nước hơn 3,6 tỉ đồng. Do đó, tòa án cấp phúc
thẩm kết án các bị án về hai tội trên là có căn cứ, đúng
pháp luật, không oan như khiếu nại.
Trước đó, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu
Quốc hội (ĐBQH) TPĐà Nẵng Nguyễn Bá Sơn có nhiều văn
bản gửi đến TAND Tối cao đề nghị xem xét kháng nghị giám
đốc thẩm.
Ngày 14-7, TAND Tối cao có văn bản trả lời Đoàn ĐBQH
Đà Nẵng rằng thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội (UBTVQH), TAND Tối cao đã rút hồ sơ và đang
nghiên cứu để báo cáo UBTVQH. Sau khi có ý kiến kết luận
của UBTVQH, TAND Tối cao sẽ có thông báo bằng văn bản
cho ĐBQH Nguyễn Bá Sơn.
Như
Pháp Luật TP.HCM
đã thông tin, năm 2000, để đảm
bảo an toàn đường dây 500 kV dự án đường Hồ Chí Minh,
Công ty cổ phần Xây dựng công trình khai thác đá 621 đã ký
hợp đồng để Công ty TNHH Thanh Nam thi công với phương
án “nổ mìn đặc biệt”. Trong quá trình thực hiện, Công ty
Thanh Nam đã thi công theo phương án “nổ om” của kỹ sư
Bùi Hải Nhân cải tiến. Công trình an toàn tuyệt đối.
Tháng 4-2009, TAND tỉnh Kon Tum xử sơ thẩm lần đầu
đã tuyên ông Nhân và hai người thuộc Công ty Thanh Nam
không phạm tội, tám bị cáo còn lại được miễn hình phạt.
Tháng 7-2009, xử phúc thẩm, Tòa Phúc thẩmTAND Tối cao
tại Đà Nẵng (nay là TAND Cấp cao tại Đà Nẵng) tuyên hủy
bản án sơ thẩm.
Năm 2018, TAND tỉnh xử sơ thẩm lần hai, phạt ông
Nhân 10 năm tù, chín bị cáo còn lại từ 12 tháng tù treo
đến tám năm tù. Tháng 11-2019, TAND Cấp cao tại Đà
Nẵng xử phúc thẩm lần hai, bác kháng cáo kêu oan và sửa
án sơ thẩm, giảm án mạnh cho 10 bị cáo. Cụ thể, bị cáo
Bùi Hải Nhân từ 10 năm xuống còn ba năm sáu tháng tù,
các bị cáo còn lại được hưởng án treo và được miễn hình
phạt. Từ khi bị kết án lần đầu đến nay, các bị án đều kêu
oan.
NGÂN NGA
Dùng đất của bà N. làm phương tiện
lừa bà Trang
Sau khi tòa xử sơ thẩm, bà N. kháng cáo cho rằng bị cáo đã chiếm đoạt
đất của bà nênbà là bị hại, tòa xác địnhbà là người liênquan là khôngđúng.
Ngoài ra, cấp sơ thẩmđã bỏ lọt tội phạm, quá trình điều tra chưa đầy đủ…
HĐXX phúc thẩm nhận định bị cáo Hoàng dùng đất của bà N. để làm
phương tiện lừa bàTrang. VKS truy tố Hoàng lừa đảo bàTrang, trong phạm
vi truy tố của VKS, tòa sơ thẩm xác định bà Trang là bị hại, còn bà N. là
người liên quan là đúng.
Ngoài ra, về mặt chủ quan, bị cáo Hoàng không có ý thức chiếm đoạt
56 m
2
đất mà chỉ sử dụng đất để làm phương tiện lừa đảo chiếm đoạt tiền
của bà Trang. Bà N. chưa được công nhận chủ quyền đối với 56 m
2
đất này,
hành vi của bị cáo không làm mất đi quyền của bà đối với phần đất nên
không thể nói bị cáo chiếm đoạt đất của bà N.
Ly kỳ vụ án
lừa bán đất…
“vịt giời”
Hành vi của bị cáo phạm tội đã rõ nhưng
cấp sơ thẩm có nhiều sai sót nghiêm trọng
nên bị hủy án.
PHƯƠNG LOAN
T
AND TP.HCM vừa xử phúc
thẩm, tuyên hủy bản án sơ
thẩm của TAND huyện Bình
Chánh xử vụ Lê Trọng Hoàng lừa
đảo chiếm đoạt tài sản do có nhiều
sai sót nghiêm trọng.
Dùng đất lừa chủ đất
Theo hồ sơ, bà N. có thửa đất 56
m
2
ở xã Bình Hưng, huyện Bình
Chánh. Tháng 9-2009, bà thuê Lê
Trọng Hoàng xây một căn nhà cấp
bốn trên đất. Bà N. giao cho Hoàng
các giấy tờ liên quan để làm thủ tục
xin giấy phép xây dựng.
Đầu năm 2010, Hoàng nói dối bà
Lâm Thị Thu Trang rằng Hoàng đã
mua lô đất này giá 200 triệu đồng,
muốn bán lại cho bà Trang. Để bà
Trang tin, Hoàng đưa bà Trang hợp
đồng giả thể hiện là bà N. chuyển
nhượng đất cho Hoàng cùng với các
giấy tờ mà trước đó bà N. đã đưa.
Bà Trang đồng ý mua đất và đưa
cho Hoàng 250 triệu đồng. Sau khi
nhận đất, bà Trang xây nhà, làm thủ
tục xin cấp điện sinh hoạt và được
cấp đồng hồ điện. Sau đó, Hoàng
nói với bà N. rằng mình đã làm
nhà xong nên bà N. thanh toán cho
Hoàng 73 triệu đồng (gồm 60 triệu
đồng theo hợp đồng đã giao kết và
13 triệu đồng chi phí phát sinh theo
đề nghị của Hoàng).
Để che giấuhànhvi lừa đảo, Hoàng
vờ hỏi bà N. mua lại căn nhà với
Bà N. đã đưa cho bị cáo
73 triệu đồng, hành vi
này có dấu hiệu của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài
sản nhưng cơ quan tố
tụng cấp sơ thẩm không
làm rõ.
giá 770 triệu đồng. Hoàng đặt cọc
10 triệu đồng, sau đó đưa thêm 60
triệu đồng rồi cắt liên lạc. Bà N. đến
căn nhà thì thấy người khác đang ở
nên đã khởi kiện Hoàng ra TAND
huyện Bình Chánh. Quá trình giải
quyết vụ kiện, xét thấy có dấu hiệu
tội phạm nên tòa chuyển công an
huyện kiến nghị khởi tố Hoàng.
Ngày 2-4, VKSND huyện Bình
Chánh truy tố Hoàng tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản là tiền của bà
Trang. TAND huyện Bình Chánh
xác định bà Trang là bị hại, còn bà
N. là người liên quan. Xử sơ thẩm,
tòa này tuyên phạt Hoàng chín năm
tù về tội lừa đảo chiếmđoạt tài sản và
buộc trả lại bà Trang 250 triệu đồng.
Tuy nhiên, tại phiên xử phúc thẩm,
TAND TP.HCM đã tuyên hủy án.
Hủy án, điều tra lại
Tòa phúc thẩm đã chỉ ra hàng loạt
sai sót trong quá trình điều tra, xét
xử của cấp sơ thẩm, những sai sót
này là nghiêm trọng, phải hủy án
để điều tra, xét xử lại.
Thứ nhất, bị cáo Hoàng đang phải
chấp hành bản án ngày 21-2-2017
của TANDTP.HCM với mức án 30
năm tù về ba tội. Tuy nhiên, khi xét
xử, tòa sơ thẩm lại không tổng hợp
hình phạt của bản án này để buộc
bị cáo phải chấp hành hình phạt
chung là trái luật. Tòa sơ thẩm xác
định thời hạn chấp hành hình phạt
tù tính từ ngày 7-2-2013 là mâu
thuẫn, trùng lặp về thời hạn chấp
hành hình phạt tù theo bản án ngày
21-2-2017 của TAND TP.HCM.
Thứ hai, phần đất mà bị cáo sử
dụng làm phương tiện phạm tội đã
được chuyển nhượng nhiều lần cho
nhiều người. Sau khi bị cáo lừa bán
cho bà Trang thì bà đã xây dựng
nhà trái phép và chuyển nhượng
cho người khác. Các giao dịch này
đều không đúng pháp luật. Tuy có
sự tranh chấp về phần đất đã nêu
nhưng chưa đủ điều kiện để giải
quyết trong cùng vụ án.
Mặt khác, bà N. cũng từng khởi
kiện bị cáo yêu cầu trả đất cho bà,
vụ án đã được TAND huyện thụ
lý. Do đó, tòa sơ thẩm không giải
quyết phần dân sự có liên quan đến
phần đất sử dụng làm phương tiện
phạm tội là có căn cứ.
Tuy nhiên, việc tòa sơ thẩm tuyên
“tách yêu cầu dân sự của bà Trang
và bà N. để giải quyết bằng một
vụ án khác” là không rõ ràng. Bởi
lẽ bản án sơ thẩm không thể hiện
yêu cầu của bà Trang là gì; không
xác định rõ giải quyết bằng một vụ
án khác theo trình tự tố tụng hình
sự hay dân sự, hay là tiếp tục giải
quyết vụ án dân sự do bà N. đã khởi
kiện mà tòa này đã thụ lý.
Thứ ba, chủ đất đầu tiên là người
được tòa xác định là người liên quan.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra,
cơ quan điều tra không lấy lời khai
của ông này mà lại lấy lời khai của
con gái ông. Có người khác cũng
được tòa sơ thẩm xác định là người
liên quan nhưng không còn cư trú
tại địa phương, khi giao văn bản tố
tụng, tòa gửi qua đường bưu điện
là không đúng mà phải niêm yết
công khai.
Thứ tư, sau khi lừa bà Trang, bị
cáo Hoàng nói với bà N. rằng đã làm
xong nhà và yêu cầu bà N. thanh
toán tiền. Vì tưởng thật, bà N. đã
đưa 73 triệu đồng, hành vi này có
dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nhưng cơ quan tố tụng cấp
sơ thẩm không làm rõ.
Ngoài ra, bà N. (là người cao
tuổi) không có đề nghị miễn án phí
nhưng tòa sơ thẩm vẫn tự miễn án
phí là không đúng.•