7
        
        
          Pháp luật
        
        
          
            &
          
        
        
          cuộc sống -
        
        
          Thứ Hai 5-11-2018
        
        
        
          Luật & đời
        
        
          Tínhminhbạchnhìn
        
        
          từvụđổi 100USD
        
        
          
            Gần đây, những vụ việc nóng mà báo chí phản ánh nhiều
          
        
        
          
            đó là việc xử phạt hành chính đối với người mua bán 100
          
        
        
          
            USD tại TP Cần Thơ và việc không công khai danh tính của
          
        
        
          
            những chủ công trình xây dựng vi phạm tại Sóc Sơn (TP Hà
          
        
        
          
            Nội).
          
        
        
          
            Trong vụ đổi 100 USD, UBND TP Cần Thơ tổ chức họp
          
        
        
          
            báo khẳng định việc xử phạt hành chính là đúng, trong khi
          
        
        
          
            nhiều câu hỏi báo chí đặt ra chưa được người phát ngôn
          
        
        
          
            trả lời. Theo báo chí phản ánh, cho đến nay các cơ quan
          
        
        
          
            chức năng liên quan vẫn chưa công bố công khai hồ sơ vụ
          
        
        
          
            việc để chứng minh mình làm đúng. Nhiều nhà báo đã liên
          
        
        
          
            hệ tìm hiểu nhưng chưa được cơ quan chức năng liên quan
          
        
        
          
            cung cấp đầy đủ hồ sơ.
          
        
        
          
            Một trong những nguyên tắc trong xử phạt vi phạm hành
          
        
        
          
            chính là: Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành
          
        
        
          
            nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền,
          
        
        
          
            bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. Rõ
          
        
        
          
            ràng việc xử phạt hành chính vụ đổi 100 USD tại Cần Thơ
          
        
        
          
            không thuộc diện bí mật, tại sao lại không công khai hồ sơ
          
        
        
          
            vụ việc? Nếu các cơ quan chức năng ở Cần Thơ cho rằng
          
        
        
          
            mình làm đúng thì phải công khai toàn bộ quá trình xử lý
          
        
        
          
            và cung cấp để báo chí đưa tin, minh định cho rõ. Chỉ có
          
        
        
          
            như thế thì dư luận mới ủng hộ, còn việc né tránh chỉ làm
          
        
        
          
            cho dư luận thêm nghi ngờ.
          
        
        
          
            Tương tự, trong vụ hàng loạt biệt thự mọc trái phép ở đất
          
        
        
          
            quy hoạch rừng phòng hộ ở Sóc Sơn, việc cung cấp thông
          
        
        
          
            tin về người vi phạm cũng mang tính “nửa vời”.
          
        
        
          
            Các cơ quan chức năng đã kết luận cần tháo dỡ các công
          
        
        
          
            trình sai phạm để khắc phục. Tuy nhiên, cho đến nay chủ
          
        
        
          
            các công trình xây dựng vi phạm là những ai thì các cơ
          
        
        
          
            quan chức năng liên quan vẫn chưa công khai, chưa cung
          
        
        
          
            cấp thông tin cho báo chí, dù với chức trách quản lý về đất
          
        
        
          
            đai và xây dựng, các cơ quan liên quan đương nhiên nắm
          
        
        
          
            rõ điều này.
          
        
        
          
            Chủ các công trình sai phạm là ai, đại gia hay quan
          
        
        
          
            chức, có gì tế nhị không mà phải giấu tên họ? Dư luận đặt
          
        
        
          
            ra nhiều câu hỏi, nhiều thắc mắc, nghi ngờ không phải
          
        
        
          
            không có lý do. Dân nghèo sửa chữa nhỏ, vi phạm là cán
          
        
        
          
            bộ quản lý trật tự xây dựng tại địa phương biết ngay nhưng
          
        
        
          
            những biệt phủ đồ sộ như ở Sóc Sơn rầm rộ mọc lên thì
          
        
        
          
            dường như không ai thấy? Đến khi xác định có sai phạm
          
        
        
          
            rồi, phải tháo dỡ để khắc phục rồi mà thông tin vẫn không
          
        
        
          
            được cơ quan chức năng liên quan công khai.
          
        
        
          
            Liên quan đến chuyện này, trả lời báo chí, có lần cán bộ
          
        
        
          
            của xã có ý rằng chủ của những công trình vi phạm này là
          
        
        
          
            người có uy tín nên việc công khai danh tính, xử lý vi phạm
          
        
        
          
            khó và phải thận trọng. Với tư duy như vậy thì còn đâu là
          
        
        
          
            sự công bằng trong xã hội. “Quân pháp bất vị thân”, việc
          
        
        
          
            xử lý vi phạm không có vùng cấm và mọi người bình đẳng
          
        
        
          
            trước pháp luật là những tiêu chí mà cả hệ thống chính trị
          
        
        
          
            của chúng ta hướng đến. Và xin thưa rằng những người có
          
        
        
          
            địa vị xã hội, những người nắm giữ chức vụ cao trong xã
          
        
        
          
            hội càng phải tôn trọng và nêu gương trong việc chấp hành
          
        
        
          
            pháp luật. Việc chúng ta xử lý không nghiêm dẫn đến “lờn
          
        
        
          
            luật”. Đây là hệ lụy vô cùng nguy hiểm.
          
        
        
          
            Đối với những vụ việc mà xã hội quan tâm và không
          
        
        
          
            thuộc trường hợp bí mật thì việc các cơ quan có thẩm
          
        
        
          
            quyền thông tin chi tiết, rõ ràng cho nhân dân thông qua
          
        
        
          
            báo chí là cách tốt nhất để giải tỏa những đồn đoán không
          
        
        
          
            tốt và cũng là nghĩa vụ của cơ quan nhà nước để nhân dân
          
        
        
          
            thực hiện quyền giám sát của mình. Việc công khai thông
          
        
        
          
            tin còn nhằm mục đích tuyên truyền pháp luật. Còn nếu
          
        
        
          
            trong quá trình xử lý có những điểm chưa đúng thì cũng
          
        
        
          
            cần mạnh dạn sửa chữa, khắc phục. Chỉ có như thế thì xã
          
        
        
          
            hội mới tiến bộ và nhân dân mới yên tâm về những gì mà
          
        
        
          
            cơ quan nhà nước thực hiện.
          
        
        
          
            Tóm lại, nếu việc xử lý của các cơ quan có thẩm quyền là
          
        
        
          
            đúng đắn thì nên cung cấp đầy đủ thông tin cho báo chí và
          
        
        
          
            đây là cách tuyên truyền pháp luật hiệu quả nhất. Trường
          
        
        
          
            hợp giám sát, phản biện của nhân dân cho thấy việc làm
          
        
        
          
            của cơ quan có thẩm quyền là sai thì cần phải xem xét và
          
        
        
          
            sửa cho đúng quy định của pháp luật. Có như thế niềm tin
          
        
        
          
            của nhân dân vào Nhà nước sẽ càng được củng cố.
          
        
        
          
            Minh bạch thông tin trong những trường hợp này cần
          
        
        
          
            phải được thực hiện đến nơi đến chốn!
          
        
        
          Luật sư
        
        
          
            LÊ VĂN HOAN
          
        
        
          MINHKHÁNH
        
        
          T
        
        
          ANDhuyệnCái Bè (TiềnGiang)
        
        
          vừa xét xử sơ thẩm vụ tranh
        
        
          chấp đòi tài sản giữa bà NTN
        
        
          (nguyên đơn) và bà NTS.
        
        
          Món nợ từ
        
        
          43 năm trước
        
        
          Theo đơn khởi kiện, bà N. trình
        
        
          bày: Vào tháng 6-1975, bà có cho
        
        
          bà S. mượn 300 đồng. Bà S. hứa 10
        
        
          ngày sau sẽ trả cho bà nhưng đến
        
        
          hạn bà S. không trả. Bà nhiều lần
        
        
          đòi, bà S. vẫn không trả, sau đó bà
        
        
          S. bỏ trốn, bà tìm mãi không được.
        
        
          Đến năm 2017, bà N. mới tìm
        
        
          gặp lại bà S. Ngày 15-5-2017, bà
        
        
          có đến nhà bà S. để yêu cầu bà S.
        
        
          trả nợ và bà có ghi âm lại cuộc nói
        
        
          chuyện giữa hai bên.
        
        
          Ngày 9-6-2017, UBND xã Hòa
        
        
          Hưng có mời hai bên đến hòa giải
        
        
          nhưng không thành. Vì vậy, bà N.
        
        
          khởi kiện yêu cầu TAND huyện Cái
        
        
          Bè buộc bà S. phải trả số tiền nợ là
        
        
          300 đồng, quy đổi ra giá trị hiện nay
        
        
          là 150 triệu đồng. Bà N. giải thích
        
        
          cho việc tự quy đổi của mình rằng
        
        
          vào thời điểm năm 1975, bà có bán
        
        
          một căn nhà trị giá 300 đồng nên
        
        
          bà S. nợ bà 300 đồng thì nay phải
        
        
          trả trị giá tương đương.
        
        
          Làm việc với tòa, bà S. xác định
        
        
          vào khoảng năm 1975, bà có nợ bà
        
        
          N. 100 đồng. Thời gian đã quá lâu,
        
        
          nay bà cũng không còn nhớ rõ sự
        
        
          việc này. Hiện nay 100 đồng thời
        
        
          điểm năm 1975 không còn giá trị
        
        
          nữa nên phía bà N. cho rằng bà nợ
        
        
          300 đồng năm 1975 và tự quy đổi
        
        
          thành 150 triệu đồng là không có
        
        
          cơ sở. Nay vì là chỗ tình nghĩa, bà
        
        
          đồng ý tự nguyện trả cho bà N. 2
        
        
          triệu đồng. Việc bà N. cung cấp cho
        
        
          tòa một đĩa ghi âm, bà xác định việc
        
        
          ghi âm là do bà N. tự ghi, bà hoàn
        
        
          toàn không biết.
        
        
          Những người làm chứng là người
        
        
          thân của bà S. thì trình bày rằng
        
        
          không liên quan đến tranh chấp
        
        
          của hai bên, không biết gì về đoạn
        
        
          ghi âm mà bà N. cung cấp cho tòa.
        
        
          Tòa bác yêu cầu
        
        
          Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX
        
        
          nhận thấy yêu cầu khởi kiện của bà
        
        
          N. là không có căn cứ chấp nhận bởi
        
        
          lẽ bà N. cho rằng bị đơn có nợ 300
        
        
          đồng tiền Việt Nam do ngân hàng
        
        
          của Chính phủ cách mạng lâm thời
        
        
          Cộng hòa miền NamViệt Nam (gọi
        
        
          là Ngân hàng Nhà nước) phát hành
        
        
          nhưng không cung cấp được tài liệu,
        
        
          chứng cứ gì chứng minh. Phía bà
        
        
          Cho mượn 300
        
        
          đồng, kiện đòi
        
        
          150 triệu đồng
        
        
          Tòa sơ thẩmbác yêu cầu khởi kiện vì cho rằng nguyên đơn
        
        
          không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì chứngminh.
        
        
          Bà N. giải thích việc tự
        
        
          quy đổi của mình rằng
        
        
          vào năm 1975, bà có bán
        
        
          một căn nhà trị giá 300
        
        
          đồng nên bà S. nợ bà 300
        
        
          đồng thì nay phải trả trị
        
        
          giá tương đương.
        
        
          Chưa làm sáng tỏ vụ án?
        
        
          Về mặt pháp lý, một lãnh đạo tòa chuyên trách của TAND TP.HCM (đề
        
        
          nghị không nêu tên) nhận xét: Tòa sơ thẩm chưa làm rõ được việc chứng
        
        
          minh chuyển đổi số tiền mà đã bác yêu cầu của nguyên đơn là chưa đầu
        
        
          tư nghiên cứu để đi đến tận cùng của vụ án.
        
        
          Cụ thể, trong vụ án, bà N. phải có nghĩa vụ chứng minh là bà S. mượn
        
        
          300 đồng hay 100 đồng. Nếu bà N. không có căn cứ chứngminh cho bà S.
        
        
          mượn 300đồng thì tòa phải chấpnhận sốnợ 100đồngmà bà S. thừa nhận.
        
        
          Tiếp đó, tòa phải làm rõ được hai yếu tố sau:
        
        
          Thứ nhất, phải xác định được tỉ lệ đổi tiền cũ sang tiền mới qua các
        
        
          thời kỳ từ năm 1975 đến nay. Từ năm 1975 đến nay, Nhà nước ta đã trải
        
        
          qua hai lần đổi tiền (năm 1978 và 1985). Do đó tòa cần hỏi cơ quan chức
        
        
          năng (Ngân hàng Nhà nước) để xác định tỉ lệ quy đổi từ đồng tiền cũ
        
        
          sang đồng tiền mới.
        
        
          Thứ hai, phải làm rõ được số tiền bị trượt giá từ thời điểmnăm1975 cho
        
        
          tới nay bằng cách có văn bản gửi Tổng cục Thống kê bởi tổng cục này có
        
        
          chức năng công bố tỉ lệ lạm phát hằng năm.
        
        
          Từ hai yếu tố trên, tòa sẽ dùng số tiền quy đổi qua mỗi lần Nhà nước
        
        
          đổi tiền cộng với số tiền trượt giá thì sẽ ra con số mà bà S. phải trả cho
        
        
          bà N. Do đó, việc tòa sơ thẩm chỉ chấp nhận số tiền 2 triệu đồng mà bà S.
        
        
          tự nguyện trả cho bà N. là chưa làm sáng tỏ bản chất vụ án.
        
        
          
            NGÂN NGA
          
        
        
          S. chỉ thừa nhận có nợ 100 đồng,
        
        
          nay tiền này không còn giá trị lưu
        
        
          hành do đã qua nhiều kỳ đổi tiền.
        
        
          Bên cạnh đó, bà N. yêu cầu bà
        
        
          S. trả tiền nợ và tự quy đổi ra giá
        
        
          trị hiện tại là 150 triệu đồng nhưng
        
        
          không cung cấp được tài liệu, chứng
        
        
          cứ chứng minh cho việc quy đổi
        
        
          này. Trong quá trình giải quyết vụ
        
        
          án, bà N. có yêu cầu tòa án thu thập
        
        
          chứng cứ. TAND huyện Cái Bè đã
        
        
          có công văn gửi đến Ngân hàng Nhà
        
        
          nước hỏi rõ về vấn đề quy đổi tiền
        
        
          tại thời điểm năm 1975 so với thời
        
        
          điểm hiện tại. Trong công văn phúc
        
        
          đáp tòa, Ngân hàng Nhà nước đã
        
        
          nêu rõ: “Theo quy định pháp luật
        
        
          về ngân hàng, thuộc phạm vi chức
        
        
          năng quản lý của Ngân hàng Nhà
        
        
          nước Việt Nam, hiện nay chưa có
        
        
          quy định về mức trượt giá đồng
        
        
          tiền và quy đổi giá trị 300 đồng
        
        
          Việt Nam thời điểm 1975 ra giá trị
        
        
          đồng tiền hiện hành”. Do đó, việc
        
        
          bà N. tự quy đổi tiền là không có
        
        
          căn cứ xem xét.
        
        
          Từ các phân tích trên, HĐXX kết
        
        
          luận yêu cầu khởi kiện của bà N. là
        
        
          không có cơ sở chấp nhận. Mặc dù
        
        
          tại phiên tòa, phía bà S. vắng mặt
        
        
          nhưng trong quá trình giải quyết
        
        
          vụ án, bà S. đã đồng ý tự nguyện
        
        
          trả cho bà N. 2 triệu đồng. Xét thấy
        
        
          đây là sự tự nguyện của bị đơn, phù
        
        
          hợp theo quy định pháp luật, có lợi
        
        
          cho nguyên đơn nên HĐXX ghi
        
        
          nhận. Mặt khác, do yêu cầu đòi nợ
        
        
          của bà N. không được chấp nhận
        
        
          nên HĐXX tuyên buộc bà N. phải
        
        
          chịu 7,5 triệu đồng tiền án phí, bà
        
        
          S. phải chịu 300.000 đồng án phí.•