282-2023 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Hai11-12-2023
Tiêu điểm
Bổ sung quy phạm, bảo đảm thực thi
quyền con người
Theo các công ước quốc tế thì tự do tôn giáo là một quyền rất quan
trọng của con người. Nội luật hóa các công ước trên, Hiến pháp năm 2013
và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 ghi nhận và bảo vệ quyền tự do
tôn giáo của con người.
Để bảo vệ quyền tự do tôn giáo của con người thì cần thiết phải có quy
phạm pháp luật xử lý những hành vi ngăn cản hoặc ép buộc một người
thực hiện quyền tự do tôn giáo. Điều 164 BLHS năm2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi“dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc
người khác thực hiện quyền tự do tôn giáo, theo hoặc không theomột tôn
giáo nào đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm”.
LTS: Hôm qua (10-12) là ngày Nhân
quyền thế giới; trong suốt 75 năm qua,
thế giới không ngừng đấu tranh nhằm
bảo đảm quyền con người được thực thi
ở mức cao nhất. Trong nỗ lực chung
ấy, Việt Nam từng bước đạt được nhiều
thành tựu và đã trở thành thành viên
Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2023-2025.
Pháp Luật TP.HCM
xin giới thiệu vệt
bài về những thành tựu của Việt Nam
trong bảo đảm thực thi quyền con người.
Những thành tựu nhân quyền
ở Việt Nam - Bài 1
Bệ đỡ pháp lý
bảo đảm
thực thi quyền
con người
Việt Nam thể hiện nỗ lực rất lớn khi đã
nội luật hóa hầu hết các quyền con người
được quy định trong các công ước quốc tế
vào pháp luật quốc gia.
TS CAOVŨMINH(*)
N
gày nay, quyền con người
được cả thế giới thừa nhận
là một khái niệm toàn cầu.
Theo cách tiếp cận này, việc bảo
đảm quyền con người phải mang
tính pháp lý quốc tế.
Tại các quốc gia, việc bảo vệ các
quyền con người thể hiện qua việc
thể chế hóa các quy định pháp lý
quốc tế thành pháp luật quốc gia.
Tính phổ quát toàn cầu
và tính đặc thù quốc gia
Cơ sở của quyền con người hình
thành trên giá trị và phẩm giá của
mỗi con người, là biểu hiện sự tôn
trọng phẩm giá, giá trị của con
người. Nhìn một cách tổng quát, cơ
sở pháp lý của quyền con người là
các điều ước, tập quán quốc tế, các
nguyên tắc pháp luật chung được
các dân tộc thừa nhận, các phán
quyết của Tòa án Công lý quốc tế
và quan điểm của các chuyên gia
pháp luật có uy tín. Trong đó, cơ
sở quan trọng nhất là Hiến chương
Liên hợp quốc (LHQ) và các điều
ước quốc tế về quyền con người.
Quyền con người được công
nhận một cách phổ quát trong nhiều
văn bản pháp lý quốc tế như Hiến
chương LHQ năm 1945 (Charter
of the United Nations), Tuyên bố
chung về quyền con người năm1948
(Universal Declaration of Human
Rights), Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị năm 1966
(ICCPR), Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm
1966(ICESCR),Tuyênngônvềquyền
của những người thuộc nhóm thiểu
số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo
và ngôn ngữ năm 1992 (Declaration
on the Rights of Persons Belonging
to National or Ethnic, Religious and
Linguistic Minorities), Tuyên bố
Quá trình xây dựng,
hoàn thiện nhà nước
pháp quyền, các quy
phạm quốc gia sẽ dần
được quy định phù hợp
với tất cả công ước quốc
tế về quyền con người mà
Việt Nam tham gia.
Cam kết bảo vệ quyền
trẻ em từ rất sớm
VN cũng đã phê chuẩn, gia nhập
25 công ước của ILO, trong đó có 7/8
công ước cơ bản. So với nhiều nước
phát triển trên thếgiới,VNkhông thua
kém về số lượng là thành viên các
côngước quốc tế vềquyền conngười.
Mỹ hiện là nước duy nhất chưa phê
chuẩnCôngước LHQvềquyền trẻ em
năm 1989 (CRC). Trong khi đó, VN là
thành viên đầu tiên của châu Á và là
thành viên thứ hai trên thế giới phê
duyệt công ước này.
Vienna về quyền con người năm
1993 (ViennaDeclaration onHuman
rights) và Tuyên bố Bangkok năm
1993 (Bangkok Declaration). Tuy
vậy, không phải dễ để đưa ra những
tiêu chuẩn quyền con người cụ thể
cho một quốc gia.
Ở cấp độ quốc tế, chúng ta tạm
thời chấp nhận những tiêu chuẩn
quyền con người mang tính phổ
quát toàn cầu. Ở cấp độ của từng
quốc gia, quyền con người vẫn có
những đặc thù riêng bởi quyền con
người không thể tách rời các yếu tố
chính trị, văn hóa và đặc trưng xã
hội của quốc gia đó. Do đó, vấn đề
có tính pháp lý đặt ra là bên cạnh
việc gia nhập các điều ước quốc
tế thì từng quốc gia phải cố gắng
nội luật hóa các công ước này vào
pháp luật quốc gia nhằm bảo đảm
sự hài hòa giữa tính phổ quát và
tính đặc thù.
Việt Nam hòa nhịp
rất sớm trong bảo vệ
quyền con người
Trên thế giới, Công ước quốc
tế về các quyền dân sự, chính trị
(ICCPR), Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
(ICESCR) và Tuyên ngôn toàn thế
giới về nhân quyền năm 1948 (viết
tắt là UDHR) được coi là Bộ luật
quốc tế về quyền con người, được
đặt dưới sự giám sát riêng của Ủy
ban Nhân quyền, độc lập với Hội
đồng Nhân quyền của LHQ.
Năm 1977, Việt Nam (VN) gia
nhập LHQ và chỉ năm năm sau đó,
VN đã gia nhập ICCPR và ICESCR
(cùng vào ngày 24-9-1982). So với
nhiều quốc gia khác trên thế giới,
việc gia nhập ICCPR và ICESCR
của VN là tương đối sớm.
Tính đến năm 2023, VN đã phê
chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ
bản của LHQ về quyền con người
bao gồm: Công ước quốc tế về ngăn
ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng;
Công ước quốc tế về ngăn ngừa và
trừng trị tội ác A-pac-thai; Công
ước quốc tế về xóa bỏ tất cả hình
thức phân biệt chủng tộc (ICERD);
Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị (ICCPR); Công ước
quốc tế về các kinh tế, xã hội và văn
hóa (ICESCR); Công ước về không
áp dụng thời hiệu tố tụng đối với
tội phạm chiến tranh và tội phạm
chống lại nhân loại; Công ước về
xóa bỏ tất cả hình thức phân biệt
đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW).
Trong thời gian qua, VN đã có
những nỗ lực đáng kể trong thực
hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên
của các công ước này. Bên cạnh đó,
VN cũng tích cực nội luật hóa các
công ước quốc tế này. Có thể nói
VN thể hiện nỗ lực rất lớn khi đã
nội luật hóa hầu hết các quyền con
người được quy định trong các công
ước quốc tế vào pháp luật quốc gia.
Nỗ lực tương thích với
pháp luật quốc tế về
quyền con người
Tuy nhiên, việc ghi nhận và bảo
đảmquyền con người tạiVNvẫn còn
gặp không ít thách thức. Cụ thể, hệ
thống các văn bản quy phạm pháp
luật ghi nhận bảo đảm quyền con
người ở VN hiện nay trong một số
trường hợp là chưa đầy đủ so với
các công ước quốc tế về quyền con
người mà VN tham gia.
Pháp luật VN hiện nay vẫn chưa
có quy định về một số quyền con
người đã được ghi nhận trong công
ước quốc tế. Đó là các quyền không
bị bắt làm nô lệ và nô dịch (Điều 8
ICCPR); quyền không bị bỏ tù vì
không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp
đồng (Điều 11 ICCPR); quyền thành
lập, gia nhập công đoàn (Điều 22
ICCPR, Điều 8.1 ICESCR). Trong
các công ước trên thì các quyền như
tự do đi lại, cư trú được thừa nhận là
quyền con người, lẽ tất nhiên, mọi
người đều được hưởng. Tuy nhiên,
Hiến pháp năm 2013 mới chỉ thừa
nhận các quyền trên dành cho công
dân với tính chất là quyền công dân.
VN đã có quy định về quyền lập
hội, quyền biểu tình. Cụ thể, Điều
25 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc
thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định”.
Với xu hướng phát triển của nền
dân chủ và là quốc gia yêu chuộng
hòa bình, VN ngày càng thể hiện
quyết tâm trong việc công nhận, tôn
trọng và bảo đảm quyền con người.
Dĩ nhiên, bên cạnh thành tựu nội
luật hóa đã đạt được, chúng ta vẫn
còn có điểm hạn chế nhất định. Quá
trình xây dựng, hoàn thiện nhà nước
pháp quyền, các quy phạm quốc gia
sẽ dần được quy định phù hợp với
tất cả công ước quốc tế về quyền
con người mà VN tham gia.•
(*)
TS
Cao Vũ Minh
hiện công
tác tại Trường ĐH Kinh tế - Luật
(ĐH Quốc gia TP.HCM)
Phó Thủ tướng Trần LưuQuang
(giữa)
dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Namthamdự phiên họp cấp cao
khóa 52Hội đồngNhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva. Ảnh: TTXVN
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook