7
Luật và đời
Chở thuê nhớt giả
và lằn ranhpháp lý
Trong pháp luật hình sự, “biết” thuộc về nhận thức, ý thức
chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội và là cơ sở
để xác định một trong bốn yếu tố của cấu thành tội phạm.
Lúc này, việc xác định giữa có tội và không có tội dựa trên sự
chứng minh “biết hay không biết” không phải là điều dễ dàng.
Nhiều vụ án đã được điều tra, truy tố và xét xử mà trong đó
không ít trường hợp được cơ quan tiến hành tố tụng nhận định
người thực hiện hành vi “không thể biết” nên không phải chịu
trách nhiệm hình sự, mặc dù ban đầu thì chính những người
này là đầu mối, bắt quả tang để tiến hành các bước điều tra,
xác minh và truy tố. Có thể kể ra như vụ án mua bán trái phép
chất ma túy được TAND TP.HCM đưa ra xét xử ngày 7-12-
2023, người làm công việc giao hàng (shipper) được xác định
“không mở ra xem, không biết gói hàng là ma túy nên không
có tội”.
Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp người thực hiện hành vi
không được may mắn như vậy và phần lớn tiếp tục kháng cáo
kêu oan với cơ sở để kết luận “biết hay không biết” vẫn còn
nhiều khúc mắc và quan điểm trái chiều. Mới đây nhất, ngày
18-7, Tòa án Quân sự Quân khu 7 đưa ra xét xử phúc thẩm vụ
án sản xuất nhớt giả thì việc xác định người chở thuê hai chuyến
xe có biết đó là nhớt giả hay không là cuộc tranh luận gay cấn
giữa đại diện VKS và luật sư bào chữa. Sau một ngày xét xử và
nghị án kéo dài, HĐXX cấp phúc thẩm đã quyết định hủy một
phần bản án sơ thẩm liên quan đến nội dung này để điều tra và
xét xử lại (trước đó, tòa án cấp sơ thẩm tuyên người chở thuê
phạm tội với vai trò đồng phạm, mức án phải chịu là năm năm tù
và cơ sở xác định dựa trên “những lời khai ban đầu” của người
này nhận thức về số hàng chở thuê là nhớt giả).
Ở một số tội danh quy định trong BLHS (năm 2015), thuật
ngữ “biết rõ” (tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có - Điều 323), “biết hoặc có cơ sở để biết” (tội
rửa tiền - Điều 324) được đề cập làm cơ sở để xác định tội
phạm. Theo tinh thần của Nghị quyết 03/2019/NQ-HĐTP của
Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thì khi “chồng
là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 8 triệu
đồng mỗi tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng vợ
vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỉ đồng để góp vốn vào doanh
nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền” là trường hợp được xác
định rằng: Bằng nhận thức thông thường, người vợ “phải biết”
được nguồn tiền này do phạm tội mà có. Lúc này, người vợ sẽ
phải đối diện với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
rửa tiền và thêm nguy cơ bị truy cứu với tội phạm liên quan số
tiền bất hợp pháp này.
Người vợ ở chung nhà có nghĩa vụ buộc phải nghi ngờ về
tính hợp pháp của khoản thu nhập bất thường của chồng. Còn
người chở thuê, mưu sinh của anh ta là chở hàng nhận tiền
công; được khách thuê thì sẵn sàng nổ máy chở đến địa chỉ do
khách yêu cầu; nếu có thắc mắc gì, nhẹ thì bị khách mắng vốn,
nặng thì mất một cơ hội kiếm tiền. Từ hai câu chuyện này, có
thể thấy tuy rằng giữa “biết hoặc có cơ sở để biết” và “không
biết” đôi khi là một sự mơ hồ trong việc xác định có hay không
hành vi phạm tội bởi sự định tính của yếu tố này nhưng hậu
quả pháp lý lại dẫn đến hai số phận rất khác biệt mà ở đó là
một bên được tự do và một bên là chuỗi ngày phải chấp hành
mức hình phạt có thể lên đến nhiều năm tù. Một người vận
chuyển thuê, một nhân viên giao hàng nhanh với mức thù lao
ít ỏi hoặc một người quen biết được nhờ xách hộ hành lý, hoặc
người thân thích được nhờ đứng tên giùm tài sản vô tình bị đặt
giữa lằn ranh pháp lý hết sức mong manh.
Trong đời sống và sinh hoạt hằng ngày, “biết” thuộc về ý
thức chủ quan của mỗi người. Ở đó, chúng ta có thể tự cho
mình cái quyền quyết định theo hướng “không nghe, không
biết, không thấy” để có thể từ chối hay không thừa nhận một
cách giản đơn và nhẹ nhàng. Nhưng khi sự vụ xảy ra và bị xem
xét trong khuôn khổ pháp luật hình sự thì câu chuyện “biết hay
không biết” không còn là cái quyền, nó trở thành trách nhiệm
và nghĩa vụ. Khi đó, hành vi của mỗi cá nhân được đặt trong
bối cảnh cụ thể mà không phải ai cũng đủ khả năng để ứng phó
phù hợp.
Thiết nghĩ pháp luật cần được quy định cụ thể hơn ở yếu tố
“biết” và “không biết” này thay vì chúng được đưa ra ở dạng
định tính; trường hợp chưa đảm bảo sự chặt chẽ và rõ ràng thì
phải buộc xem xét theo hướng có lợi cho người dân dựa trên
nguyên tắc suy đoán vô tội. Pháp luật phải luôn nghiêm minh
là điều không bàn cãi nhưng cũng không vì thế mà dẫn đến
những cáo buộc bất hợp lý. Trên hết, nguyên tắc suy đoán vô
tội cần phải được áp dụng đầy nhân văn và tiến bộ.
Luật sư
LÊ NGÔ TRUNG
,
Đoàn Luật sư TP.HCM
cầu hủy án sơ thẩm và trả lại giấy
tờ đất cho bị đơn.
Tòa căn cứ vào lời khai
của bị đơn với công an
HĐXX phúc thẩm nhận định bị
đơn không thừa nhận vay vàng
của nguyên đơn. Tuy nhiên, quá
trình làm việc tại cơ quan công
an khi xảy ra việc xô xát giữa hai
bên liên quan số vàng, có cơ sở
xác định bị đơn có vay vàng của
nguyên đơn.
Tòa trích dẫn các biên bản có
lời khai của bị đơn khi làm việc
với công an liên quan đến xô xát,
trong đó thể hiện bà Q có mượn 8
lượng vàng.
Theo tòa phúc thẩm, phía bị đơn
thừa nhận có ký vào các biên bản
(khi làm việc với công an) nhưng
không đọc là không đúng, vì cuối
biên bản có cán bộ đọc lại cho bị
đơn nghe và công nhận là đúng nên
bị đơn ký tên.
Tòa dẫn thêm các biên bản để
chứng minh việc lấy lời khai ở công
an phường cũng như tại cơ quan điều
tra thì đến hiện tại, bị đơn chưa cung
cấp được chứng cứ chứng minh để
xác định cán bộ lấy lời khai ghi sai
lời trình bày của bị đơn.
Tòa cho rằng lời khai của những
người làm chứng tuy chỉ nghe nói
việcmượn vàng giữa các bên, không
chứng kiến trực tiếp nhưng phù hợp
với lời khai của nguyên đơn, bị đơn
đã thừa nhận nên cũng được xem
xét, đánh giá trong tổng thể các tình
tiết sự kiện trong vụ án.
Cũng theo tòa, tất cả lời khai của
bị đơn tại công an, khi tòa án cấp
sơ thẩm giải quyết đã được cơ quan
công an lưu giữ cung cấp cho tòa án
nên được xem là chứng cứ hợp pháp
và được sử dụng làm căn cứ để xác
định tình tiết khách quan của vụ án
theo quy định Điều 93 BLTTDS.
Chính trong các biên bản lấy lời
khai này, bị đơn thừa nhận có vay
của nguyên đơn 8 lượng vàng. Dù
việc vay vàng giữa các bên không
làm biên nhận, bị đơn không thừa
nhận trong quá trình giải quyết ở tòa
án nhưng bị đơn thừa nhận tại cơ
quan có thẩmquyền khác cũng được
xem là tình tiết sự kiện không cần
phải chứng minh. Đây là cơ sở để
buộc bị đơn trả nợ cho nguyên đơn.
Tòa cho rằng việc nguyên đơn
giữ giấy tờ đất của bị đơn là chứng
cứ xác định bị đơn có vay vàng,
bởi không ai tự đem giấy tờ đất là
quyền về tài sản cho người khác
giữ trong khi không có điều kiện
hay mối liên quan nào.
Ngoài ra, tòa cũng dẫn các lời
khai của nhân chứng để bác bỏ việc
chồng bà Q gửi giấy tờ đất tại nhà
cha mẹ (ở chung với nguyên đơn).
Từ đó, tòa phúc thẩm tuyên bác
kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ
thẩm, buộc bị đơnphải trả chonguyên
đơn 80 chỉ (8 lượng) vàng 24K.•
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứHai22-7-2024
NHẪNNAM
M
ới đây, TAND TP Cần Thơ
xét xử phúc thẩm vụ án tranh
chấp hợp đồng vay tài sản
8 lượng vàng giữa nguyên đơn là
bà H và bị đơn là vợ chồng bà Q.
Tại tòa, bị đơn không
thừa nhận có vay mượn
Theo hồ sơ, bà H trình bày vào
ngày 10-10-2021 (âm lịch), bà cho
vợ chồng bà Q vay/mượn 8 lượng
vàng 24K. Đây là số vàng bà mượn
của mẹ bà.
Khi mượn vàng, vợ chồng bà
Q viết biên nhận và giao cho bà
quản lý giấy tờ đất do chồng bà
Q đứng tên để thế chấp, đảm bảo
cho khoản nợ.
Theo thỏa thuận, vợ chồng bà Q
hứa đến tháng 9-2022 sẽ trả nhưng
đến nay vẫn chưa trả nên bà khởi
kiện yêu cầu vợ chồng bà Q trả
lại 8 lượng vàng 24K. Đồng thời,
bà đồng ý trả lại giấy tờ đất khi
vợ chồng bà Q thanh toán xong
nghĩa vụ.
Ngược lại, phía bị đơn không
thừa nhận có vay mượn vàng của
bà H nên không đồng ý trả. Hơn
nữa, vào các năm 2017, 2019, 2021,
ông bà sửa chữa nhà nên có gửi vật
dụng và giấy tờ đất cho cha (lúc
này đang sống chung nhà với bà H).
Trong quá trình gửi tài sản thì thất
lạc giấy tờ đất mà bà H đang giữ.
Xử sơ thẩm, TAND quận Thốt
Nốt chấp nhận yêu cầu của bà H,
buộc vợ chồng bị đơn trả cho bà
H 80 chỉ (8 lượng) vàng 24K; ghi
nhận nguyên đơn tự nguyện trả lại
giấy tờ đất cho bị đơn.
Sau đó, bị đơn kháng cáo yêu
Dù việc vay vàng không
làm biên nhận, bị đơn
không thừa nhận trong
quá trình giải quyết ở
tòa án nhưng bị đơn
thừa nhận tại cơ quan có
thẩm quyền khác cũng
được xem là tình tiết sự
kiện không cần phải
chứng minh.
Thắng kiện 8 lượng
vàngnhờ lời khai của
bị đơn với công an
Bị đơn không thừa nhận với tòa về việc vay 8 lượng vàng nhưng
trước đó lại có nhiều lời khai với công an về việc vaymượn này.