191-2024 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Ba27-8-2024
tòa buộc bà Thanh thanh toán cho
ông T hơn 2,26 tỉ đồng.
Sau khi bà T kháng cáo, xử phúc
thẩm tháng 9-2023, TAND tỉnh Bình
Dương giữ nguyên quyết định của
bản án sơ thẩm về tài sản chung,
sửa một phần bản án sơ thẩm về
phần nợ chung và án phí.
Sau đó, VKSND Cấp cao tại
TP.HCM đã có quyết định kháng
nghị bản án phúc thẩm.
VKSNDCấp cao tại TP.HCMcho
rằng: Theo văn bản thỏa thuận phân
chia tài sản chung của bà Thanh và
ông T được công chứng tại Văn
phòng công chứng (VPCC) Bàu
Bàng, ông T thống nhất chia cho bà
Thanh 600 m
2
đất, các tài sản chung
còn lại không được thỏa thuận chia
là tài sản chung của vợ chồng. Sau
đó, bà Thanh được cấp giấy chứng
nhận đối với 600 m
2
đất, còn hơn
9.600 m
2
đất còn lại do ông T đứng
tên vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
Do đó, cả hai bản án sơ thẩm và
phúc thẩmxác định hơn 9.600m
2
đất
là tài sản riêng của ông T nên không
chấp nhận yêu cầu chia tài sản của bà
Thanh là đánh giá không đúng chứng
cứ. Bên cạnh đó, đối với hai thửa đất
mà tòa tuyên bà Thanh được hưởng
1/2 giá trị (hơn 2,269 tỉ đồng), không
được chia hiện vật do không đủ diện
tích tối thiểu để tách thửa là áp dụng
không đúng khoản 1 Điều 1 Quyết
định 28/QĐ-UBNDngày 3-12-2019
của UBND tỉnh Bình Dương.
Cụ thể, theo Quyết định 28, đối
với thửa đất có nhiều loại đất thì việc
xem xét tách thửa chỉ áp dụng cho
một loại đất nếu có đủ điều kiện...
Bà Thanh được chia 150 m² đất ở
(đủ diện tích tối thiểu để tách thửa
- PV) và 2.753 m² đất trồng cây lâu
năm trên cùng thửa đất. Do đó, việc
bà Thanh yêu cầu nhận 1/2 quyền
sử dụng đất là không trái với quy
định của UBND tỉnh Bình Dương.
Cũng theo kháng nghị, các khoản
tiền ông T vay của bốn người (cha
mẹ, em ruột và bạn của ôngT), trong
đó có khoản nợ 1,96 tỉ đồng (vay của
em ruột ông T và bạn ông T) chuyển
vào tài khoản của ông T trong thời
gian bà Thanh và ông T đã ly thân từ
năm 2019. Giấy vay tiền không thể
hiệnmục đíchvay, trongkhi bàThanh
không thừa nhận khoản nợ vay này.
“Hồ sơ vụ án chưa thu thập đủ các
chứng cứ để xác định bà Thanh có
hay không có nghĩa vụ liên đới đối
với khoản nợ này theoĐiều 37, Điều
45 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014. Do đó, việc buộc bà Thanh
trả 1/2 số nợ này là không bảo đảm
căn cứ pháp luật” - kháng nghị nêu.
Từ đó, viện trưởng VKSND Cấp
cao tại TP.HCM kháng nghị giám
đốc thẩm theo hướng hủy phần
quyết định chia tài sản chung và
nợ chung của hai bản án để xét xử
lại theo thủ tục sơ thẩm.
Tuynhiên,Hội đồnggiámđốc thẩm
TANDCấp cao tại TP.HCMchỉ chấp
nhận một phần kháng nghị, hủy một
phần bản án phúc thẩm và một phần
bản án sơ thẩm về phần nợ chung.
Quan điểm trái chiều về tài
sản chung, tài sản riêng
Sau khi xử phúc thẩm, bà Thanh
liên hệVPCCBàu Bàng để xác định
diện tích đất còn lại chưa chia của văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung của
vợ chồng. Ngày 2-10-2023, VPCC
BàuBàng trả lời rằng theo hồ sơ công
chứng thì phần diện tích đemchia cho
bà Thanh là 600m
2
. Diện tích còn lại
sau khi trừ đi 600 m
2
vẫn là tài sản
chung vợ chồng (theo Điều 40 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Trường hợp ông T muốn chia
phần diện tích còn lại thì phải có
bản vẽ diện tích đất còn lại. Đồng
thời, trong văn bản thỏa thuận chia
tài sản chung của vợ chồng phải có
nội dung: “Ông T được chia phần
diện tích..., số thửa tờ bản đồ số...”.
Còn đối với hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất của ông T cùng
vợ là bà Thanh cho mẹ ông T 600
m
2
đất (lập cùng ngày với văn bản
chia tài sản chung) thì phần diện
tích tặng cho là 600 m
2
. Diện tích
còn lại sau khi trừ đi 600 m
2
vẫn là
tài sản chung của vợ chồng.
Trao đổi với PV, ông Đoàn Cao
Thái (TrưởngVPCCBàu Bàng) cho
biết hồ sơ công chứng thể hiện rõ
sau khi chia cho bà Thanh 600 m
2
đất và tặng cho 600 m
2
đất cho mẹ
ông T thì phần còn lại hơn 9.600 m
2
CHÂUYẾN
T
heo phản ánh của bà Lương
Thị Ngọc Thanh (TP.HCM),
tháng 7-2020, bà khởi kiện ly
hôn chồng là ông T tại TAND TP
Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tuy
nhiên, những phán quyết của tòa
khiến bà vô cùng băn khoăn.
Tiền được chia gần bằng
tiền trả nợ cho nhà chồng
Cụ thể, xử sơ thẩm vào tháng
3-2023, TAND TPThuậnAn tuyên
xử công nhận thuận tình ly hôn giữa
bà và ông T, giao con chung cho bà
Thanh nuôi dưỡng.
Về tài sản chung, tòa giao cho ông
T hai thửa đất, ông T thanh toán cho
bà Thanh 1/2 giá trị hai thửa đất này
với số tiền hơn 2,269 tỉ đồng. Cấp sơ
thẩm cũng tuyên không chấp nhận
yêu cầu của bà Thanh về việc chia
tài sản là hai thửa đất khác (trong
đó có một thửa đất hơn 9.600 m
2
đất đứng tên ông T). Về nợ chung,
Bà Lương Thị Ngọc Thanh (TP.HCM) gửi đơn phản ánh đến báo Pháp Luật TP.HCM. Ảnh: YC
Quan điểm
khác nhau về
1 thỏa thuận
chia tài sản
Văn phòng công chứng cho rằng phần
đất còn lại chưa thỏa thuận vẫn là tài sản
chung của vợ chồng, VKSNDCấp cao
cũng đồng tình nên kháng nghị nhưng tòa
án lại cho rằng đây là tài sản riêng.
đất không chia, vẫn là tài sản chung
của vợ chồng. Ông Thái cũng cho
biết trong suốt quá trình tố tụng tại
tòa, VPCC Bàu Bàng không được
tòa án triệu tập tham gia vụ án.
Về phía bàThanh, bà cho rằngmọi
thứ đã rất rõ ràng nên vô cùng khó
hiểu về phán quyết của các cấp tòa.
“Đối với văn bản thỏa thuận phân
chia tài sản chung, tôi và ông T thỏa
thuận chia cho tôi 600 m
2
, sau đó
tặng cho mẹ chồng 600 m
2
, phần
còn lại hơn 9.600 m
2
vẫn là tài sản
chung, phần này không chia.
Khi thực hiện công chứng, công
chứng viên đã giải thích rõ điều này.
Sự việc rất rõ và VPCC Bàu Bàng
cũng xác nhận việc này, VKSND
Cấp cao cũng kháng nghị là vì thế
nhưng TAND Cấp cao tại TP.HCM
lại bác kháng nghị về phần này, thật
khó hiểu” - bà Thanh nói.
Về phần nợ chung, theo bà Thanh,
tất cả những giấy vay tiền viết tay
là do ông T tự tạo, chỉ có ông T ký,
có những giấy nợ lập khi hai người
đã ly thân. Và chủ nợ không ai xa lạ
mà đó chính là cha, mẹ, em ruột của
ông T và một người bạn của ông T.
Theo bà Thanh, sau khi cấn trừ nợ,
bà chỉ được nhận 9 triệu đồng (!).•
Lập luận của TAND Cấp cao tại TP.HCM về
phần chia tài sản chung
Đối với diện tích đất hơn 9.600 m
2
, đây là một phần đất được tách ra
dựa trên văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng. Trên cơ sở
của thỏa thuận này thì thửa đất đã được tách thành hai thửa.
Căn cứ tiêu đề “Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng”,
theo nội dung văn bản thể hiện phần bà Thanh được chia là một thửa,
sau đó thì bà Thanh được cấp giấy chứng nhận, còn ông T được cấp giấy
chứng nhận đối với thửa còn lại (hơn 9.600 m
2
). Như vậy, thửa đất cấp
cho ông T là thuộc tài sản riêng của ông T.
Vì vậy, việc bàT yêu cầu chia thửa đất này là không có căn cứ chấp nhận.
“Cả hai bản án sơ thẩm
và phúc thẩm xác định
hơn 9.600 m
2
đất là tài
sản riêng của ông T
nên không chấp nhận
yêu cầu chia tài sản của
bà Thanh là đánh giá
không đúng chứng cứ”
- VKSND Cấp cao tại
TP.HCM nhận định.
Cựu thẩm phán TAND tỉnh Gia Lai bị phạt 15 năm tù về tội nhận hối lộ
Ngày 26-8, sau hai ngày nghị án, TAND tỉnh Gia Lai
tuyên phạt Võ Đình Sớm, cựu thẩm phán TAND tỉnh này,
15 năm tù về tội nhận hối lộ.
Tòa nhận định hành vi phạm tội của cựu thẩm phán Võ
Đình Sớm là đặc biệt nghiêm trọng. Bị cáo đã lợi dụng
chức trách, nhiệm vụ được giao, gợi ý người liên quan
trong vụ án mà Sớm được phân công giải quyết chi tiền
để giải quyết vụ việc theo mong muốn; làm cho người liên
quan bức xúc trình báo cơ quan chức năng, gây dư luận
xấu đến hoạt động bình thường của cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng.
Bản án sơ thẩm xác định thẩm phán Võ Đình Sớm được
TAND tỉnh Gia Lai phân công giải quyết vụ án dân sự
tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông PAT
(ngụ phường Yên Thế, TP Pleiku, Gia Lai) và bị đơn là
Ban quản lý rừng phòng hộ Bắc Biển Hồ. Trong quá trình
giải quyết vụ án, Võ Đình Sớm yêu cầu ông PAT đưa cho
mình 1,5 tỉ đồng để xử cho ông này thắng kiện. Ông PAT
đồng ý đưa trước 500 triệu đồng.
Ngày 4-8-2023, ông PAT đem 500 triệu đồng đến đưa
cho thẩm phán Sớm tại phòng làm việc của ông này tại
TAND tỉnh Gia Lai. Khi ông PAT vừa ra khỏi phòng, Cơ
quan điều tra VKSND Tối cao bắt khẩn cấp Võ Đình Sớm.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Võ Đình Sớm
nhiều lần quanh co chối tội, cho rằng số tiền trên là để góp
vốn đầu tư làm trại nuôi heo. Tuy nhiên, cơ quan tiến hành
tố tụng xác định đây là hành vi nhận hối lộ.
Cụ thể, bị cáo Võ Đình Sớm cho rằng cáo trạng và kết
luận điều tra là không đúng, vô căn cứ. “Bị cáo không
nhận hối lộ 500 triệu đồng, bị cáo bị ông PAT (nguyên
đơn) gài, lén lút bỏ tiền dưới gầm bàn” - bị cáo Sớm nói.
Trong quá trình xét hỏi, bị cáo Sớm yêu cầu kiểm sát
viên giữ quyền công tố tại tòa không được suy diễn. Bị
cáo Sớm xác nhận có yêu cầu ông PAT lên phòng làm
việc, mục đích để gửi thông báo về lịch xét xử, không hề
hay biết và không có yêu cầu nguyên đơn đưa hối lộ 500
triệu đồng.
Tuy nhiên, đại diện VKSND hỏi, đưa ra nhiều lập luận
và chứng cứ ghi âm về thời điểm ông PAT mang 500 triệu
đồng vào phòng làm việc của ông Võ Đình Sớm thì ông
này liên tục quanh co chối tội, né tránh.
LÊ KIẾN
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook