7
NHÓMPV
T
rình bày tham luận “Nghĩa vụ đối
xử nhân đạo trên biển theo quy định
của Công ước Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982” tại hội thảo, PGS-TS
Trần Thăng Long, Trường ĐH Luật
TP.HCM, cho biết UNCLOS năm 1982
đã thiết lập một khuôn khổ pháp lý toàn
diện về đối xử nhân đạo trên biển. Đồng
thời, phản ánh quy tắc quan trọng trong
Luật Biển quốc tế về bảo vệ sinh mạng
con người, đặc biệt tập trung vào nghĩa
vụ của các quốc gia và tàu thuyền trong
việc cứu hộ người gặp nạn trên biển.
Nghĩa vụ cứu nạn áp dụng
trong mọi vùng biển
Theo PGS-TS Trần Thăng Long, đối xử
nhân đạo trên biển đóng vai trò then chốt
trong hệ thống luật hàng hải quốc tế và hoạt
động hàng hải toàn cầu. Bởi vai trò cốt lõi
nhất của đối xử nhân đạo trên biển là bảo
vệ sinh mạng con người, thúc đẩy hợp tác
quốc tế về biển, góp phần quan trọng trong
việc phát triển và hoàn thiện luật hàng hải
quốc tế, cũng như đảm bảo an toàn hàng hải
và quyền của người đi biển và bảo vệ môi
trường biển phát triển bền vững.
Phân tích rõ điều này, PGS-TS Trần
Thăng Long dẫn chứng UNCLOS quy
định mọi quốc gia phải yêu cầu thuyền
trưởng của tàu mang cờ quốc gia mình,
trong chừng mực có thể thực hiện được
mà không gây nguy hiểm nghiêm trọng
cho tàu, thủy thủ đoàn hoặc hành khách
thực hiện các nghĩa vụ cứu nạn.
“Quy định này thể hiện nguyên tắc cơ
bản của Luật Biển quốc tế về tính nhân
đạo và trách nhiệm của cộng đồng hàng
hải trong việc bảo vệ sinh mạng con
người trên biển” - ông Long nói và cho
biết UNCLOS quy định nghĩa vụ cứu
nạn áp dụng trong mọi vùng biển, không
phân biệt quốc tịch, địa vị hay hoàn cảnh
của người gặp nạn.
Tại Việt Nam, đối xử nhân đạo trên
biển là một trong những nguyên tắc cơ
bản được quy định trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, phản ánh cam kết mạnh
mẽ của Việt Nam trong việc bảo vệ sinh
mạng con người trên biển và thực hiện
các nghĩa vụ quốc tế.
Kể từ khi chính thức là thành viên
của UNCLOS đến nay, Việt Nam đã xây
dựng một hệ thống pháp luật tương đối
đầy đủ về đối xử nhân đạo trên biển.
Trong đó có Hiến pháp 2013, Luật Biển
Việt Nam 2012, Bộ luật Hàng hải Việt
Nam 2015, Luật Cảnh sát biển Việt
Nam 2018 cùng các văn bản khác…
Trên thực tế, dẫn chứng số liệu từ
VINASARCOM, PGS-TS Trần Thăng
Long cho biết trong giai đoạn 2018-
2022, lực lượng cứu nạn Việt Nam đã
thực hiện 1.523 vụ tìm kiếm cứu nạn
trên biển, cứu thành công 3.847 người
gặp nạn và hỗ trợ an toàn cho 726 tàu
thuyền gặp sự cố.
Riêng trong năm 2022, tỉ lệ cứu nạn
thành công đạt 92,3%, tăng 5,7% so với
năm 2018. Thời gian phản ứng trung
bình cho các vụ cứu nạn đã giảm từ 120
phút (2018) xuống còn 75 phút (2022),
Đặc biệt, trong các tình huống khẩn
cấp, tỉ lệ can thiệp kịp thời đạt 87,5%,
thiệt hại về tài sản giảm 35% so với giai
đoạn 2013-2017, chi phí trung bình cho
mỗi hoạt động cứu hộ giảm 22%.
“Nhân đạo” với cả phương tiện
bay trên biển
Thời gian tới, PGS-TS Trần Thăng
Long gợi ý việc thực thi nghĩa vụ đối
xử nhân đạo trên biển nên lồng ghép
yếu tố môi trường trong hoạt động cứu
hộ, đảm bảo cân bằng giữa phát triển
kinh tế và bảo vệ nhân đạo, thúc đẩy
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới.
Trao đổi về nội dung này, ThS
Nguyễn Thị Thanh Huyền, Trường ĐH
Luật TP.HCM, cho biết ngoài quy định
nghĩa vụ đối xử nhân đạo trên biển với
tàu thuyền hoặc con người, UNCLOS
còn quy định về nghĩa vụ đối xử nhân
đạo với phương tiện bay trong trường
hợp xảy ra sự cố về hàng không trên
biển.
“Điều này cho thấy tính đặc biệt của
UNCLOS năm 1982 vì ngay cả Công
ước Chicago năm 1944 về hàng không
dân dụng quốc tế cũng không có một
điều khoản nào trực tiếp quy định về
nghĩa vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên
các phương tiện bay” - ThS Huyền đánh
giá.•
Đối xửnhânđạo trênbiển,
quyđịnhnhânvăncủa
UNCLOS
UNCLOS đã thiết lậpmột khuôn khổ pháp lý toàn diện về đối xử
nhân đạo trên biển.
-
ThứBảy 16-11-2024
VỀ LUẬT BIỂN (UNCLOS 1982) CÓ HIỆU LỰC
hiệu quả
hòa bình
PGS-TS Trần Thăng Long, TrườngĐH Luật TP.HCM, trình bày tham luận tại hội thảo.
Ảnh: HOÀNGGIANG
và vận động quốc tế.
TS Nguyễn Toàn Thắng
khẳng định việc cam kết và
thực thi UNCLOS là nền tảng
trong chiến lược của Việt
Nam nhằm bảo vệ quyền lợi
biển và duy trì ổn định tại
Biển Đông.
“Tuy nhiên, trong bối cảnh
những thách thức phức tạp từ
các yêu sách và hành động phi
pháp từ các quốc gia khác,
Việt Nam vẫn đối mặt với
nhiều khó khăn trong việc
bảo vệ quyền chủ quyền và
quyền tài phán hợp pháp của
mình” - TS Nguyễn Toàn
Thắng nhận định.
Do đó, bên cạnh việc tiếp
tục thực thi các quy định của
UNCLOS, TS Thắng nhìn
nhận Việt Nam cần tăng
cường năng lực bảo vệ và
thực thi pháp luật trên biển,
duy trì đối thoại và hợp tác
với các nước trong và ngoài
khu vực để đạt được sự ủng
hộ của cộng đồng quốc tế.
Về nội dung này, Đại sứ -
GS-TS Nguyễn Hồng Thao,
thành viên Ủy ban Luật quốc
tế của Liên hợp quốc, khẳng
định Việt Nam chưa bao giờ
loại trừ việc sử dụng cơ quan
tài phán quốc tế để giải quyết
tranh chấp trên Biển Đông.
Ông cho biết xu hướng các
nước sẽ sử dụng cơ quan tài
phán quốc tế để giải quyết
các vấn đề khó đàm phán.
Kết quả, có trường hợp thành
công và ngược lại.
TheoGS-TSNguyễnHồng
Thao, khi đưa nhau ra tòa,
phải chấp hành toàn bộ phán
quyết của tòa. Đặc biệt, phải
chuẩn bị tư thế, hồ sơ kỹ
lưỡng, bằng chứng cụ thể,
thuyết phục, cùng đội ngũ
luật sư giỏi tham gia vào các
cơ quan tài phán quốc tế.
•
TS
HỒ NHÂN ÁI
,
Trường ĐH Luật,
ĐH Huế:
Quyền đi qua
không gây hại
cho tất cả
tàu thuyền
Là một quốc gia lục địa ven biển, Việt
Nam không có các eo biển dùng cho hàng
hải quốc tế cũng như các tuyến đường của
vùng nước quần đảo.
Do đó, tự do hàng hải chủ yếu tập trung
vào quyền đi qua không gây hại trong lãnh
hải và quyền tự do hàng hải trong vùng đặc
quyền kinh tế. Tuy vậy, các quy định pháp
luật Việt Nam điều chỉnh quy chế pháp lý
của tàu thuyền nước ngoài phần lớn liên
quan đến quyền đi qua không gây hại trong
lãnh hải.
Luật Biển 2012 của Việt Nam được đánh
giá là một bước hoàn thiện trong việc quy
định về quyền đi qua không gây hại cho tàu
thuyền nước ngoài trong vùng lãnh hải Việt
Nam và giúp cho pháp luật biển Việt Nam
“xích lại gần hơn” với UNCLOS. Cụ thể,
Luật Biển 2012 khẳng định: “Tàu thuyền
của tất cả quốc gia được hưởng quyền đi
qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam.
Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực
hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh
hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam”.
Tôi cho rằng Việt Nam cần tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về
quản lý các vùng biển và tạo ra khuôn khổ
pháp lý để thực hiện các nội dung khác của
Công ước Luật Biển.
PGS-TS
VŨ THANH
CA
, nguyên Vụ trưởng
Vụ Hợp tác quốc tế và
khoa học công nghệ,
Tổng cục Biển và Hải
đảo Việt Nam:
Nỗ lực khai thác,
sử dụng
tài nguyên biển
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã
rất nỗ lực thực hiện các quy định pháp luật
về khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ
môi trường và nghiên cứu khoa học biển
phù hợp với UNCLOS năm 1982.
Trong đó, đối với môi trường biển, Việt
Nam đã thực hiện những nghiên cứu liên
quan tới quản lý tổng hợp vùng bờ biển
gắn với lưu vực sông, đảm bảo tài nguyên
nước được sử dụng công bằng và hiệu quả,
đảm bảo ngăn chặn chất ô nhiễm từ lưu
vực sông và vùng bờ ảnh hưởng tới biển.
Các chương trình, kế hoạch giảm thiểu
ô nhiễm rác thải nhựa từ các nguồn khác
nhau đã được xây dựng, ban hành và thực
hiện ở Việt Nam đã từng bước giúp giảm
thiểu nguồn ô nhiễm từ rác thải nhựa, làm
biển sạch hơn…
Tôi cho rằng công tác quản lý tổng hợp
tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
được triển khai trên phạm vi toàn vùng
biển Việt Nam đã giúp Việt Nam bảo vệ
tốt hơn môi trường và các hệ sinh thái, đa
dạng sinh học biển.•
Nhà báo Mai Ngọc Phước, Tổng Biên tập
báo
Pháp Luật TP.HCM
, đồng Trưởng Ban
tổ chức hội thảo, nhấn mạnh UNCLOS là
một trong những chọn lựa đúng đắn nhất,
mang tính chiến lược của Việt Nam kể từ
khi chúng ta đặt bút ký tham gia, đến khi
Quốc hội Việt Nam phê chuẩn cách đây
đúng 30 năm và cho đến hiện nay.
Trong thời điểm thế giới xảy ra nhiều
biến động thì giá trị của UNCLOS càng
phát huy giá trị.
Ông khẳng định những kỳ vọng, góp ý,
hiến kế của các đại biểu, chuyên gia sẽ giúp
Việt Nam tiếp tục theo đuổi một cách hiệu
quả UNCLOS trong những thập niên tiếp
theo. Nhất là khi đặt trong bối cảnh tranh
chấp ở Biển Đông còn phức tạp, việc đấu
tranh bảo vệ chủ quyền sẽ là chặng đường
còn dài, đòi hỏi nhiều nỗ lực, sự quyết liệt,
linh hoạt và khéo léo từ phía Việt Nam cũng
như sự thiện chí, tinh thần hợp tác từ các
quốc gia khác.•
Ý KIẾN