7
Luật và đời
Đề xuất giảmthuế giá trị
gia tăng:Rất hợp lòngdân!
Việc giảm thuế VAT trong mấy năm sau dịch COVID-19 gần
như đã trở thành một thông lệ. Cứ đến kỳ, Bộ Tài chính lại lấy
ý kiến để trình Chính phủ đề xuất Quốc hội quyết việc này.
Kỳ đề xuất nào Bộ Tài chính cũng đề nghị các nhóm hàng
hóa, dịch vụ không được ưu đãi thuế VAT như viễn thông,
công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại, sản phẩm
từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai
thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hóa chất, sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Tất nhiên, tác động dễ thấy là việc giảm thuế VAT sẽ dẫn
đến ngân sách sẽ giảm thu nhưng ở chiều ngược lại, điều đó
sẽ góp phần giảm giá thành hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao
động. Hàng hóa giảm giá thì người dân sẽ có nhiều cơ hội
mua hàng hóa với giá rẻ hơn, tăng hiệu quả tiết kiệm chi phí
và hỗ trợ phục hồi các mô hình sản xuất, kinh doanh, cũng
như cải thiện sức khỏe tài chính tiêu dùng…
Thật ra việc giảm 2% thuế VAT, khởi đầu là một đề xuất
được đưa ra ở bối cảnh sau dịch COVID-19, khi sức khỏe của
nền kinh tế đang cần được phục hồi. Thế nhưng chuyện phải
cân đối thu chi vào thời điểm đấy cũng là một bài toán khó khi
nguồn thu bị ảnh hưởng nặng nề. Đó là chưa nói trong điều
hành kinh tế vĩ mô, khi ngân sách giảm thu hàng chục ngàn
tỉ đồng là một câu chuyện không hề nhỏ, vì nó có thể khiến
cho việc hoàn thành nghị quyết về ngân sách Quốc hội giao
gặp khó khăn. Nhưng đến nay thì việc giảm 2% thuế VAT đã
thành… thông lệ.
Thật ra với người bình thường, việc giảm 2% thuế VAT này
có thể không có tác động lớn nhưng với người có thu nhập
thấp, chi tiêu của họ có thể được cải thiện chút ít khi mà mớ
rau, con cá, cân gạo, hộp sữa… giá vẫn không nhỉnh hơn
“cùng kỳ năm ngoái”.
Ngoài ra, trước đây, đối với một số doanh nghiệp, dù vui
với việc giảm thuế VAT nhưng bước đầu họ cũng ít nhiều bỡ
ngỡ, có nơi còn gặp vài khó khăn, vướng mắc, chẳng hạn như
điều chỉnh yếu tố kỹ thuật trong hóa đơn VAT (phải điều chỉnh
từ 10% xuống 8%). Tuy vậy, những phiền toái ban đầu ấy rồi
cũng qua, nhất là khi “thông lệ giảm thuế VAT” đã được hình
thành.
Có điều giảm thuế VAT lần này vẫn phân biệt các nhóm
hàng hóa, dịch vụ không được miễn thuế. Thật ra, cơ quan có
trách nhiệm mong muốn rằng đã miễn 2% thuế VAT thì miễn
đồng loạt cho tất cả nhóm hàng hóa, dịch vụ. Vì nếu so sánh
với dự toán thu trên 1,8 triệu tỉ đồng/năm thì số giảm thu cũng
không ảnh hưởng nhiều. Chưa kể, định hướng tiết kiệm chi,
tăng thu của Chính phủ những năm qua đã có tác động hiện
hữu, kể cả thời dịch COVID-19 thì ngân sách nhà nước vẫn
vượt thu và có đủ nguồn lực để cải cách tiền lương, chi đầu tư
phát triển.
Nếu áp dụng giảm thuế VAT cho tất cả nhóm hàng hóa, dịch
vụ thì cả cơ quan thuế, doanh nghiệp, người dân đều… khỏe.
Bởi chỉ riêng việc xác định nhóm hàng hóa, dịch vụ nào được
giảm thuế VAT không phải lúc nào cũng đơn giản. Vì vậy, việc
giảm 2% thuế VAT cho tất cả nhóm hàng hóa, dịch vụ có lẽ là
một gợi ý cần được các cơ quan hữu quan nghĩ đến.
Mặt khác, như đã nói ở trên, việc giảm 2% thuế VAT đã
thành thông lệ. Chính phủ trình Quốc hội chủ trương này
cũng là tuân thủ hiến pháp, luật, pháp luật liên quan đến thuế.
Nhưng cũng phải thấy rằng một thông lệ như vậy chắc hẳn
cần một quy trình đơn giản hơn theo tinh thần mà Tổng Bí
thư Tô Lâm phát biểu ở ngày khai mạc kỳ họp thứ 8, Quốc hội
khóa XV: “Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên
thì giao cho Chính phủ, địa phương quy định để đảm bảo linh
hoạt trong điều hành”.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trong phát biểu khai
mạc kỳ họp, đặc biệt là trong văn bản gửi các đại biểu Quốc
hội, cũng nhấn mạnh một yêu cầu về lập pháp: “Những vấn
đề mới, đang trong quá trình vận động, thực tiễn biến động
thường xuyên, chưa ổn định thì chỉ quy định khung, mang
tính nguyên tắc và giao Chính phủ, các bộ, chính quyền địa
phương quy định để đảm bảo linh hoạt trong điều hành, phù
hợp với thực tiễn”.
Một khi tinh thần này của Tổng Bí thư Tô Lâm được quán
triệt và triển khai trong thực tiễn, cùng với chủ trương phân
cấp, phân quyền thì chắc chắn sẽ làm cho các chính sách vì dân
đi vào cuộc sống nhanh hơn, phát huy hiệu quả kịp thời hơn.
CHÂN LUẬN
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứHai 18-11-2024
YẾNCHÂU
V
ừa qua, VKSND Cấp cao tại
Đà Nẵng ban hành thông báo
rút kinh nghiệm vụ án bị cáo
H cùng đồng phạm bị truy tố về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong
đó, VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng
đã chỉ ra nhiều vấn đề cần rút kinh
nghiệm.
Thu tiền đặt cọc ba thửa đất
rồi chiếm đoạt
H thành lập và điều hành hoạt
động của ba công ty: Công ty ĐB
(H làm tổng giám đốc), Công tyWQ
(T làm giám đốc), Công ty KQ (N
làm giám đốc).
Từ ngày 10-10-2019 đến 15-1-
2020, H với tư cách là tổng giám
đốc Công ty ĐB đã chỉ đạo T, N thế
chấp ba thửa đất và một số tài sản
khác để vay vốn tại ngân hàng số
tiền 38 tỉ đồng.
Sau đó, mặc dù ba thửa đất đang
thế chấp tại ngân hàng nhưng H vẫn
tiếp tục chỉ đạoT, N lấy tư cách Công
tyWQ và Công ty KQ ký hợp đồng
môi giới độc quyền với Công ty ĐB.
Mục đích để Công ty ĐB môi
giới, giao dịch và thu tiền đặt cọc
ba thửa đất trên của ba người khác,
sau đó lấy nhiều lý do khác nhau để
trốn tránh việc chuyển nhượng ba
thửa đất, chiếm đoạt số tiền đặt cọc
5,76 tỉ đồng.
Xử sơ thẩm, các bị cáo H, T và N
bị tuyên phạm tội lừa đảo chiếmđoạt
tài sản. Bị cáoHbị tuyên phạt 12 năm
tù, T tám năm tù và N bốn năm tù.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ba bị cáo
trong vụ án đều kháng cáo xin giảm
nhẹ hình phạt.
Viện trưởng VKSND Cấp cao tại
Đà Nẵng kháng nghị phúc thẩm với
nội dung không áp dụng khoản 2
Điều 54 BLHS, tăng hình phạt đối
với bị cáo N; không tuyên buộc bị
cáo H phải bồi thường cho các bị hại
số tiền hơn 3,6 tỉ đồng và chịu án phí
dân sự sơ thẩm.
TAND Cấp cao tại Đà Nẵng xử
phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ
thẩm để điều tra lại.
Những vấn đề
cần rút kinh nghiệm
Theo VKSND Cấp cao tại Đà
Nẵng, tại phiên tòa phúc thẩm, bị
cáo H khai nhận số tiền 38 tỉ đồng
vay từ ngân hàng đã chuyển khoản
về tài khoản của Công ty ĐB, sau đó
rút ra đưa cho bị cáo trả nợ.
H còn khai nhận Công ty ĐB đóng
góp 5%trong tổng số tiền vay đểmua
bất động sản nhưng vấn đề này chưa
được điều tra làm rõ.
Trong quá trình giải quyết vụ án,
tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công
tyĐBvào thamgia tố tụng là có thiếu
sót nên cần rút kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, theo các giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp cấp cho
Công ty KQ và Công ty WQ thì hai
công ty này không được phép kinh
doanh bất động sản. Mặt khác, hai
công ty này không có tài sản là các
quyền sử dụng đất (QSDĐ) trên.
Mặc dù H không có QSDĐ và biết
rõ ba thửa đất đang bị thế chấp để vay
tiền ngân hàng nhưng các bị cáo H,
T, N vẫn thực hiện hợp đồng đặt cọc.
Các bị cáo nhận tiền đặt cọc của
ba cá nhân khác với số tiền 5,76 tỉ
đồng và không dùng số tiền này để
thanh toán tiền vay cho ngân hàng
mà sử dụng cho mục đích cá nhân.
Dođó, hànhvi của cácbị cáođủyếu
tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản và ba hợp đồng đặt cọc này
đã vô hiệu ngay từ đầu do bị lừa dối.
Mặc dù ba hợp đồng đặt cọc đã vô
hiệu do bị lừa dối nhưng bản án sơ
thẩmvẫn công nhận sự thỏa thuận để
cho các bên đương sự tiếp tục thực
hiện hợp đồng và tiến hành chuyển
nhượng QSDĐ theo ba hợp đồng đặt
cọc đã vô hiệu là vi phạm pháp luật.
Do đó, cần hủy bản án hình sự sơ
thẩm để xác định lại các hợp đồng
đặt cọc và hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ là vô hiệu.
Ngoài ra, đối với hợp đồng đặt cọc
một trong ba thửa đất đã bị ông L
(một trong ba bị hại) khởi kiện Công
ty ĐB và Công ty KQ về tranh chấp
hợp đồng đặt cọc.
Và tại bản án dân sự sơ thẩm đã
bác yêu cầu tiếp tục thực hiện chuyển
nhượng QSDĐ; buộc Công ty KQ
phải trả cho ông L số tiền 200 triệu
đồng; buộc Công ty ĐB phải trả cho
ông L 2,64 tỉ đồng.
Như vậy, hợp đồng đặt cọc đã được
xét xử bằng một bản án dân sự đã có
hiệu lực pháp luật. Sau đó, cơ quan
CSĐT lại điều tra về chính hành vi
này vì có dấu hiệu phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nhưng lại không
kiến nghị hủy bản án dân sự nêu trên
là không đúng quy định.
HĐXX cấp phúc thẩm kiến nghị
chánh ánTANDCấp cao tại ĐàNẵng
kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm theo hướng hủy bản án dân sự
sơ thẩm đối với hợp đồng đặt cọc
nêu trên. Đây cũng là vấn đề cần rút
kinh nghiệm.
Dođó, bảnánphúc thẩmcủaTAND
Cấp cao tại Đà Nẵng đã quyết định
hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm
để điều tra lại theo đúng quy định
của pháp luật.
VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng
thông báo đến cácVKS trong khu vực
nghiên cứu rút kinh nghiệm chung.•
Theo VKS, mặc dù ba
hợp đồng đặt cọc đã vô
hiệu do bị lừa dối nhưng
bản án sơ thẩm vẫn công
nhận sự thỏa thuận để
cho các bên đương sự tiếp
tục thực hiện hợp đồng là
vi phạm pháp luật.
Rút kinh nghiệm
1 vụ án lừa đảo
hơn 5 tỉ đồng
Mặcdùkhôngcóquyềnsửdụngđấtvàbiếtrõbathửađấtđangbị thế
chấp nhưng các bị cáo vẫn ký hợp đồng và nhận cọc 5,76 tỉ đồng...
(Tiếp theo trang 1)