097-2020 - page 4

4
Thời sự -
ThứBa5-5-2020
ĐỖTHIỆN
thực hiện
T
rong kỳ 1 với tựa đề
“Hiểu đúng ý nghĩa công
hàm Phạm Văn Đồng”
,
PGS-TSVũThanhCa, nguyên
Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc
tế và khoa học công nghệ,
Tổng cục Biển và Hải đảo
Việt Nam, đã lý giải hoàn
cảnh ra đời và nội dung của
hai văn kiện: (i) Tuyên bố về
lãnh hải từ phía Trung Quốc
(TQ); (ii) Công hàm của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng năm
1958 liên quan Biển Đông.
Qua đó, PGS-TSVũThanh
Ca khẳng định: “Bản chất
công hàm Phạm Văn Đồng
(CHPVĐ) là một văn kiện
ngoại giao đơn phương với
mục đích rất đơn giản: Thể
hiện sự đoàn kết với TQchống
lại Mỹ và các nước thuộc phe
tư bản chủ nghĩa”.
Tính pháp lý của
công hàm
. Phóng viên
:
Liên quan
đến CHPVĐ (tên gọi được
đăng trên báo
Nhân Dân
ngày 22-9-1958), luật pháp
quốc tế quy định như thế nào
về tính pháp lý của văn kiện
ngoại giao?
+
PGS-TS
Vũ Thanh Ca
:
Giá trị pháp lý của CHPVĐ
không phụ thuộc vào việc
gọi văn kiện này là công hàm
hay công thư. Một nguyên tắc
của luật pháp quốc tế là khi
xem xét một văn kiện được
ký kết, cần phải tìm hiểu ý
định thực sự của người ký
văn bản trong phạmvi các câu
chữ của văn kiện. Đây chính
là các nguyên tắc “trong bốn
góc” và “cái đặc thù làm chủ
cái tổng quát”.
Theo nguyên tắc này, không
được phép suy diễn một cách
chủ quan, mà phải tìm ý định
thực sự của người viết và ký
văn kiện trong phạmvi những
câu chữ được dùng trong văn
kiện (trong bốn góc của các
trang giấy chứa văn kiện).
. Quy định đó áp dụng giải
thích CHPVĐ như thế nào?
+Có thể thấy CHPVĐgồm
hai đoạn, trong đó đoạn thứ
nhất chỉ nói về việc ghi nhận
và tán thành quyết định về hải
phận của TQ. Cụ thể: “
Chính
phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (VNDCCH)
ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố, ngày 4-9-1958, của
luật sư về công pháp quốc
tế trong và ngoài nước đồng
ý với luận điểm này.
Việt Nam thực thi
chủ quyền liên tục...
. Dù CHPVĐ không thừa
nhận chủ quyền của TQ đối
với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa nhưng lại không
phản đối tuyên bố chủ quyền
của TQ. Điều này có gây khó
khăn cho việc khẳng định quá
trình thực thi chủ quyền liên
tục của Việt Nam đối với hai
quần đảoHoàng Sa vàTrường
Sa hay không?
+ Tôi khẳng định là hoàn
toàn không! Ngày 2-9-1945,
nước VNDCCH được thành
lập, là một nhà nước độc lập,
toàn vẹn lãnh thổ và tuyên bố
chủ quyền trên toàn lãnh thổ
Việt Nam (bao gồm Trường
Sa, Hoàng Sa).
Ngày 6-3-1946, Chính
phủ VNDCCH ký với Pháp
Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt
1946. Theo đó, VNDCCH
là một quốc gia tự do trong
Liên bang Đông Dương, nằm
trong khối Liên hiệp Pháp.
Tuy nhiên, sau đó Pháp chủ
trương không thực hiện một
số thỏa thuận trong Hiệp định
sơ bộ và Tạm ước Việt Pháp,
trái lại còn cố ý gây chiến để
tái xác lập chế độ thực dân
trên lãnh thổViệt Nam. Chiến
tranh giữa hai bên xảy ra vào
cuối năm 1946 và kéo dài tới
giữa năm 1954.
Căn cứ vào Hiệp định sơ
hiệu 48859; trạm Hoàng Sa
với số hiệu 48860; trạm Ba
Bình với số hiệu 48419.
… Và được thế giới
công nhận
. Việc khẳng định chủ quyền
ở Trường Sa, Hoàng Sa của
QGVN được thế giới công
nhận như thế nào, thưa ông?
+ Năm 1951, QGVN đã
được mời tham dự Hội nghị
San Francisco về chấm dứt
chiến tranh tại châu Á - Thái
Bình Dương và lập quan hệ
với Nhật Bản thời hậu chiến.
Hội nghị có 51 nước thamgia.
Tại hội nghị, đại diện Liên Xô
là ôngAndrei Gromyko đã đề
nghị trao hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa cho TQ. Đề
nghị này đã bị hội nghị bác
bỏ với 46 phiếu chống, ba
phiếu thuận.
Tại hội nghị, Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao
QGVN Trần Văn Hữu tuyên
bố: “Việt Nam rất là hứng
khởi ký nhận trước nhất cho
công cuộc tạo dựng hòa bình
này. Và cũng vì vậy cần phải
thành thật lợi dụng tất cả cơ
hội để dập tắt những mầm
mống các tranh chấp sau này,
chúng tôi xác nhận chủ quyền
đã có từ lâu đời của chúng tôi
trên quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa”.
Tuyênbốnày củaThủ tướng
Trần Văn Hữu không bị quốc
gia nào phản đối hay bảo
lưu. Như vậy, Hội nghị San
Francisco coi như đã chính
thức công nhận việc QGVN
khẳng định chủ quyền trên
hai quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa cũng như thu hồi
hai quần đảo này từNhật Bản.
. Phía TQ giai đoạn đó có
lên tiếng phản đối tuyên bố
của QGVN không?
+Trong hòa ước giữaTrung
Hoa Dân Quốc (THDQ) và
Nhật Bản ngày 28-4-1952,
THDQ ghi nhận việc Nhật
Bản từ bỏ mọi quyền đối với
hai quần đảo như nội dung đã
được ghi trong văn kiện Hội
nghị San Francisco nhưng
không yêu cầu Nhật Bản giao
lại hai quần đảo này. Việc này
là bằng chứng góp phần cho
thấy phía TQđã gián tiếp thừa
nhận tuyên bố chủ quyền của
QGVN đối với hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa tại
Hội nghị San Francisco.
Như vậy, trong thời gian
từ năm 1945 tới 1954, trong
phạmvi lãnh thổViệt Nam có
hai chính phủ của Việt Nam
và hai chính phủ này đều có
chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
VNDCCH là một thành viên
thuộc khối Liên hiệp Pháp,
được Pháp đại diện để thực
thi chủ quyền; QGVN cũng
là một thành viên thuộc khối
Liên hiệp Pháp, được Pháp
chuyển giao chủ quyền và
đã khẳng định chủ quyền đối
với hai quần đảo.
TuyênbốcủaQGVNtạiHội
nghị San Francisco không có
nước nào phản đối và bảo lưu.
Đó là bằng chứng cho thấy
Việt Nam đã khẳng định chủ
quyền rõ ràng và minh bạch
và đã tiếp nhận hai quần đảo
này từ Nhật Bản. Việc Việt
Nam tiếp tục thực thi chủ
quyền một cách liên tục từ
giai đoạn 1954-1975 và cả
giai đoạn sau đó, tôi sẽ trình
bày trong kỳ sau.
. Xin cám ơn ông.•
Kỳ cuối:
Biển Đông:
Trung Quốc cố ý
xuyên tạc công hàm
Phạm Văn Đồng
Công hàm PhạmVăn Đồng
dưới ánh sáng luật quốc tế
Chính phủ nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, quyết
định về hải phận của TQ
”.
Trong đoạn thứ hai, văn
kiện đã làm rõ hơn. Cụ thể:
Triệt để tôn trọng hải phận
12 hải lý của TQ trong mọi
quan hệ với nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa trên
mặt bể
”. Như vậy, cái đặc
thù “12 hải lý trên mặt bể”
đã làm rất rõ CHPVĐ chỉ nói
về hải phận 12 hải lý của TQ
chứ không nói vấn đề khác.
Dựa vào nội dung và bối
cảnh ra đời (mà tôi đã phân tích
trong kỳ 1 của loạt bài này),
CHPVĐ đơn giản là một văn
kiện ngoại giao đơn phương
với từ ngữ rất khéo léo. Mục
đích là để thể hiện sự ủng hộ
của Chính phủVNDCCH đối
với tuyên bố về hải phận 12
hải lý của TQ nhưng tuyệt
nhiên không thể hiện sự công
nhận của phía Việt Nam đối
với chủ quyền của TQ trên
hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Nhiều học giả,
bộ, vì VNDCCH nằm trong
khối Liên hiệp Pháp, trong
thời gian từ cuối năm 1946
tới đầu 1947, Pháp đã thực
thi quyền đại diện để bảo vệ
chủ quyền của VNDCCH tại
các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Từ cuối năm 1946, Pháp
đã chủ trương thành lập một
chính phủ khác trên đất Việt
Nam để đối trọngVNDCCH.
Ngày 5-6-1948, Hiệp ước
vịnh Hạ Long được ký kết
và ngày 8-3-1949, với sự ký
kết Hiệp định Élysée, Quốc
gia Việt Nam (QGVN), một
quốc gia độc lập thuộc Liên
hiệp Pháp, được thành lập.
Đến đầu năm 1950 đã có 35
quốc gia công nhận QGVN.
Pháp đã chính thức trao
quyền quản lý toàn bộ lãnh
thổ Việt Nam, trong đó có
hai quần đảo Hoàng Sa và
TrườngSa, choQGVN.Tháng
4-1949, hoàng thân Nguyễn
Phúc Bửu Lộc, Bộ trưởng
Bộ Nội vụ QGVN, tuyên bố
khẳng định lại chủ quyền của
Việt Namđối với Hoàng Sa và
Trường Sa. Tháng 10-1950,
việc quản lý Hoàng Sa và
Trường Sa được Pháp chính
thức bàn giao cho QGVN.
Năm 1949, Pháp đã gửi
đơn xin đăng ký các trạm khí
tượng do Pháp xây dựng tại
các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cho Tổ chức Khí
tượng Thế giới và đã được
chấp nhận. Các trạmkhí tượng
này là trạm Phú Lâm với số
“Công hàm Phạm
Văn Đồng không thể
hiện sự công nhận
của phía Việt Nam
đối với chủ quyền
của TQ trên hai
quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.”
PGS-TS
Vũ Thanh Ca
Nguyên tắc của luật pháp quốc tế là không được phép suy diễnmột cách chủ quan,
mà phải tìmý định thực sự của người viết và ký văn kiện trong phạmvi những câu chữ
được dùng trong văn kiện.
Bẻ gãy
luận điệu
của Trung
Quốc ở Liên
Hợp Quốc
- Bài 2
Họ đã nói
Giá trị công hàm
phải đặt trong
bối cảnh cụ thể
Công thư (công hàm - BTV)
của cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng là vănbảnngoại giao, nó
có giá trị pháp lý về những vấn
đề được nêu trong nội dung,
đó làViệt Namtôn trọng 12 hải
lý mà TQ tuyên bố. Công thư
không đề cập chủ quyền lãnh
thổ, vấn đề Hoàng Sa, Trường
Sa nên đương nhiên nó không
có giá trị pháp lý trong vấn đề
chủquyềnTrườngSa,HoàngSa.
Thứhai, giá trị công thưcũng
phải đặt trong bối cảnh cụ thể.
Công thư gửi choTQ trong bối
cảnhHoàngSa,TrườngSađang
thuộc quyền quản lý của Việt
NamCộng hòa theo Hiệp định
Genève1954màTQcóthamgia.
Do đó, tôi xin nói logic thông
thường là bạn không thể cho
người khác cái gì khi bạn chưa
có được.
Ông
TRẦN DUY HẢI
,
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới
quốc gia, phát biểu trong cuộc họp
báo quốc tế chiều 23-5-2014
(Theo
TTO
)
Hội nghị San Francisco đã chính thức công nhận việc QGVN khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo
Trường Sa vàHoàng Sa cũng như thu hồi hai quần đảo này từNhật Bản. Trong ảnh: Thủ tướngNhật
Bản Yoshida Shigeru ký hòa ước San Francisco ngày 8-9-1951. Ảnh: GETTY
1,2,3 5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,...16
Powered by FlippingBook