149-2020 - page 6

6
Tiêu điểm
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứBảy4-7-2020
Vợ chồng
ông Lê Văn
(bên
phải)
ông Lê Sĩ
Thắng bên
trong khu
đất tranh
chấp. Ảnh:
MINH
CHUNG
Vụ vợ bị đơn
định tự tử:
2 cấp tòa xử
khác biệt
Đối với ba hợp đồng chuyển nhượng đất,
tòa sơ thẩm chấp nhận hai, tòa phúc thẩm
đã xử hủy tất cả.
YẾNCHÂU
L
iên quan đến việc bà Trần Thị
Mỹ Hiệp là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan (vợ của
một bị đơn trong vụ án liên quan
đến việc chuyển nhượng đất) định
nhảy lầu tự tử tại TAND TP.HCM
vào chiều 1-7, án sơ thẩm và phúc
thẩm có nhiều nhận định, quyết
định trái ngược nhau.
Tòa sơ thẩm:
Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng đất
Vụ án được TAND quận Gò Vấp
xét xử sơ thẩmvới nguyên đơn là ông
Phan Quý, ba bị đơn là các ông Lê
Văn Dư, Lê Sĩ Thắng, KhâuVăn Sĩ.
Yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là muốn tòa án tuyên bố giao
dịch chuyển nhượng đất giữa ông
với ba người mua chưa có hiệu lực;
647 m
2
đất mà ông đã bán vẫn là
của ông; ba người mua phải hoàn trả
đất…Theo HĐXX sơ thẩm, đây là
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất (QSDĐ).
Cũng theo tòa sơ thẩm, việc chuyển
nhượngQSDĐđược ôngQuý ký kết
giấy tay với ông Sĩ vào năm 2002,
với ông Dư và ông Thắng vào năm
2009. Đến tháng 3-2017, ông Quý
phát hiện ông Dư xây dựng công
trình trên đất.
Trước đó ông Dư cũng đã mua
lại hai phần đất ông Quý chuyển
nhượng cho ông Dư, ông Thắng.
Do các hợp đồng nêu trên vẫn
chưa được công chứng, các bên
chưa hoàn thành thủ tục đăng ký,
đăng bộ nên xem như quyền và lợi
ích hợp pháp của ông Quý bị xâm
phạm kể từ tháng 3-2017. Đến ngày
30-6-2017, ông Quý nộp đơn khởi
kiện là chưa hết hai năm theo quy
định tại Điều 154 BLDS 2015 nên
thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Mặt khác, nội dung của giao dịch
cũng trái với các quy định liên quan
như các bên chuyển nhượng QSDĐ
vào năm 2002 khi ông Quý chưa
có giấy chứng nhận QSDĐ. Việc
chuyển nhượng vào năm 2009, dù
ông Quý đã có giấy chứng nhận vào
năm 2008 nhưng với diện tích 87
m
2
thì không đủ điều kiện tách thửa.
Tuy nhiên, theo kết quả xác minh
của công an phường thì hai ông Dư,
Theo TAND TP.HCM,
do không có đương
sự nào có yêu cầu bồi
thường thiệt hại phát
sinh từ giao dịch nên
việc TAND quận Gò Vấp
xử buộc nguyên đơn phải
bồi thường cho ông Dư
hơn 5,5 tỉ đồng là vượt
quá phạm vi khởi kiện
và yêu cầu của đương sự.
Lý do xét xử của TAND quận Gò Vấp
Ngày 3-7, ôngTrần ĐăngTân, Chánh ánTAND quận GòVấp, cho biết: Ông
chỉ biết vụ án này đương sự có kháng cáo chứ chưa biết việc TAND TP.HCM
xét xử phúc thẩm.
“Có ý kiến thắcmắc con gái của nguyên đơn (ông PhanQuý) có phải đang
làm thẩm phán tại TAND quận Gò Vấp, nếu đúng vậy thì vì sao Tòa Gò Vấp
không chuyển hồ sơ lên TAND TP xét xử sơ thẩm để dư luận khỏi nghi ngờ
về sự công tâm?”. Với câu hỏi này của PV, Chánh án Trần Đăng Tân xác nhận:
“Đúng là con gái của ông Quý đang là thẩm phán của TAND quận Gò Vấp
nhưng chúng tôi không cho cô ấy thamgia bất cứ việc gì liênquanđến vụ án”.
Cũng theo ông Tân, tòa án quận xét xử độc lập, khách quan và HĐXX chỉ
tuân theo pháp luật trong vụ án này. TAND quận GòVấp sẽ chờ bản án phúc
thẩm ban hành chính thức. Khi đó lãnh đạo tòa sẽ đối chiếu với bản án sơ
thẩmđể cóđánhgiá toàndiện, kháchquan về vụ án và thông tinđếnbáo chí.
MINH CHUNG
Kháng nghị của VKSND quận Gò Vấp
Ngày 21-11-2019, VKSND quận Gò Vấp ban hành quyết định kháng nghị
phúc thẩm. Theo VKSND quận Gò Vấp, để xem xét thời hiệu khởi kiện cần
xác định giao dịch có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không; người
khởi kiện biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
hại từ khi nào.
Nguyên đơn đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho các bị đơn từ năm2002
và 2009, đã nhận đủ tiền vào năm 2002 và 2011. Vì vậy, việc xác định quyền
và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm kể từ tháng 3-2017
là chưa chính xác.
Cạnh đó, tòa án chưa xác minh rõ điều kiện tách thửa, điều kiện cấp giấy
chứng nhận với từng lô đất đang tranh chấp tại thời điểm chuyển nhượng
và hiện nay nhưng đã có quyết định giải quyết vụ án. Như vậy là chưa đủ căn
cứ để xác định các giao dịch có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không
nhằm xem xét thời hiệu khởi kiện và căn cứ giải quyết vụ án.
YẾN CHÂU
“Không hề có thỏa thuận
không được xây dựng”
Theo án sơ thẩm, nguyên đơn cho
rằng sau khi bán đất xong thì nguyên
đơn đã thông báo do mua bán giấy
tay nên bên mua chỉ được xây dựng
công trình sau khi có hợp đồng công
chứng,chuyểnmụcđíchsửdụngđất…
Bị đơn LêVănDư khẳng định với PV
là không có giấy tờ nào của hai bên
mua bán nói như thế cả. Ông Dư nói
thêm:“Mua đất mà người bán không
cho xây dựng chỗ ở thì ai mua làmgì”.
MINH CHUNG
Thắng vẫn đang cư trú trên phần
đất đã nhận chuyển nhượng. Vì thế,
HĐXX chấp nhận một phần yêu
cầu của nguyên đơn hủy hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ giữa ông
với ông Sĩ về việc chuyển nhượng
500 m
2
đất. Đồng thời, HĐXX
chấp nhận một phần yêu cầu phản
tố của bị đơn, công nhận hai hợp
đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa
vợ chồng ông Quý với ông Dư, ông
Thắng về việc chuyển nhượng 87
m
2
/người.
Theo đó, do ông Thắng đã chuyển
nhượng phần đất của mình cho ông
Dư nên ông Dư được quyền liên hệ
với các cơ quan có thẩm quyền để
tách thửa, đăng ký quyền sử dụng
đất 174 m
2
.
Từ đó, HĐXX sơ thẩm công nhận
quyền sử dụng đất của ông Quý đối
với phần diện tích còn lại là 500
m
2
(sau khi ông Dư tách thửa); vợ
chồng ông Dư, ông Thắng, ông Sĩ
và những người đang ở trên đất phải
hoàn trả đất cho ông Quý. Phần ông
Quý phải thanh toán cho vợ chồng
ông Dư hơn 5,5 tỉ đồng.
Tòa phúc thẩm: Tranh
chấp quyền sử dụng đất
Ngược lại, HĐXX phúc thẩm cho
rằng đây là tranh chấp QSDĐ nên
không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Cụ thể, ông Quý chỉ khởi kiện đòi
ông Dư, ông Sĩ, ông Thắng trả lại
674 m
2
đất. Đơn khởi kiện của ông
Quý là tranh chấp QSDĐ.
Theo Điều 185 BLTTDS 2015
và khoản 3 Điều 155 BLDS 2015,
tranh chấp QSDĐ là tranh chấp
không áp dụng thời hiệu.
Do đó, tòa án cấp sơ thẩm không
đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện
của ông Quý theo đơn yêu cầu áp
dụng thời hiệu của các ông Dư, Sĩ,
Thắng là đúng pháp luật.
Căn cứ giấy chứng nhận QSDĐ,
674 m
2
đất mà các đương sự đang
tranh chấp nằm trong 3.500 m
2
đất
thuộc quyền sử dụng của ông Quý.
Thời điểm chuyển nhượng đất cho
ông Sĩ, phần đất này Nhà nước chưa
cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho
ai. Vào thời điểm ông Quý chuyển
nhượng QSDĐ cho ông Dư, ông
Thắng, nguyên đơn đã có giấy chứng
nhận QSDĐ.
Tuy nhiên, toàn bộ việc chuyển
nhượng QSDĐ nêu trên không
có chứng nhận của cơ quan công
chứng hoặc chứng thực, chưa đăng
ký với cơ quan có thẩm quyền theo
quy định.
Vì thế, việc chuyển nhượng chưa
phát sinh hiệu lực và 674 m
2
đất
này vẫn thuộc quyền sử dụng của
ông Quý. Việc ông Dư dựa vào các
hợp đồng chuyển nhượng chưa có
hiệu lực để chiếm hữu phần đất này
là không có căn cứ.
Việc ông Dư tiến hành xây dựng
các công trình trên đất đã bị UBND
quận Gò Vấp xử lý. Phần tài sản
ông Dư xây dựng trên đất đã có
quyết định buộc tháo dỡ có hiệu
lực pháp luật. Trường hợp ông Dư
không thực hiện các quyết định
này, ông Quý có quyền yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền áp dụng
biện pháp cưỡng chế.
Cạnh đó, tại cấp sơ thẩm, không
có đương sự nào có yêu cầu bồi
thường thiệt hại phát sinh từ giao
dịch, việc cấp sơ thẩm buộc ông
Quý bồi thường cho ông Dư hơn
5,5 tỉ đồng tương đương 500 m
2
đất là vượt quá phạm vi khởi kiện
và yêu cầu của đương sự…
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông
Quý tự nguyện thanh toán tiền lãi
trên số tiền ông đã nhận từ việc
chuyển nhượng với lãi suất 9%/
năm là không trái quy định pháp
luật nên có căn cứ để ghi nhận.
Cụ thể, tổng số gốc, lãi mà ông
Quý phải trả cho ông Sĩ là hơn
1,3 tỉ đồng; phải thanh toán cho
ông Dư, ông Thắng gần 836 triệu
đồng/người.
Từ đó, HĐXX không công nhận
việc chuyển nhượng QSDĐ giữa
ông Quý với các ông Dư, Sĩ, Thắng;
giữa ông Sĩ, ông Thắng với ông
Dư và không công nhận QSDĐ
của ông Dư.
HĐXX buộc các ông bà trên phải
trả lại cho ông Quý 674 m
2
đất trên.
Ông Quý phải thanh toán cho các
ông bà này khoản tiền như trên.•
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook