076-2019 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứHai 8-4-2019
CHÂUYẾN
Ô
ng Nguyễn Hoàng Đông và
ông Trương Chí Hiếu là thành
viên sáng lập (mỗi người góp
vốn 50%) Công ty TNHH Sản xuất
thương mại Hiếu Phụng (Công ty
Hiếu Phụng) hoạt động từ năm
2001. Ông Hiếu là chủ tịch hội
đồng thành viên (HĐTV) đồng
thời là giám đốc công ty.
Người quản công ty,
người giữ con dấu
Theo ông Đông, ông Hiếu không
thực hiện đúng chức trách vai trò của
mình khi không họp HĐTV hằng
năm, không bầu lại chủ tịch HĐTV
hay giám đốc. Ông Hiếu tự quyết
những vấn đề chi xuất không hợp lý,
tự ý nâng tiền thuê quyền sử dụng
đất và giảm tiền lương của thành
viên công ty, không công khai tài
chính, không chi lãi hằng năm cho
thành viên,… Mọi hoạt động của
công ty đều do ông Hiếu chi phối,
quản lýmà không thông qua HĐTV.
Tháng 6-2018, ôngĐông khởi kiện
ông Hiếu tại TAND tỉnh Vĩnh Long
yêu cầu kiểm toán toàn bộ hồ sơ, sổ
sách kế toán về hoạt động chi xuất
của công ty, nếu sai thì ông Hiếu
phải bồi thường cho công ty. Sau
khi kiểm toán, ông Hiếu phải chia
tiền lãi hằng năm 1/2 trong 85% lợi
nhuận và giao lại quyền giám đốc
và chủ tịch HĐTV cho ông Đông.
Ngược lại, ông Hiếu đề nghị tòa
bác các yêu cầu của ông Đông.
Ngoài ra, ông Hiếu còn cho rằng
ông Đông đã tự ý lấy con dấu của
công ty đem về nhà riêng tại quận
BìnhTân, TP.HCM. Từ đó ông Hiếu
Ly kỳ vụ cưỡng chế
trả con dấu cho
công ty
Tòa và VKS thống nhất, thi hành án đã ra quyết định cưỡng chế
buộc trả lại nhưng người đang giữ con dấu nhất định không chịu.
Thi hành án đề nghị ông
Đông trả dấu cho công
ty nếu không sẽ đề nghị
truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội không
chấp hành bản án theo
quy định của BLHS.
Trụ sở Công ty Hiếu Phụng nơi xảy ra vụ tranh chấp. Ảnh: YẾNCHÂU
Căn cứ để tòa bác khiếu nại của ông Đông
Trong văn bản giải quyết khiếu nại ngày 20-3, TAND tỉnh Vĩnh Long
cho rằng theo khoản 3 Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014, việc quản lý, sử
dụng và lưu giữ con dấu được thực hiện theo điều lệ công ty. Tại Điều 16
điều lệ công ty không có quy định cho ông Đông (thành viên công ty)
có quyền quản lý, sử dụng con dấu. Khoản 3 Điều 24 Luật Doanh nghiệp
1999 (có hiệu lực tại thời điểm thành lập công ty) quy định: Doanh nghiệp
có con dấu riêng theo quy định của Chính phủ. Tại Điều 10 Nghị định 62/
CP ngày 22-9-1993 về quản lý, sử dụng con dấu quy định: Người đứng
đầu các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quản lý, sử dụng con dấu theo
các quy định…
Tòa cho rằng theo các quy định trên thì ông Đông không phải là người
chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng con dấu mà là ông Hiếu. Ông Đông
cũng không phải là người trực tiếp được ông Hiếu giao con dấu để giữ,
bảo quản. Ông Đông lo ngại ông Hiếu sử dụng con dấu sẽ hợp thức hóa
hồ sơ, sổ sách, chứng từ nhưng lại không phải là người chịu trách nhiệm
quản lý, sử dụng con dấu theo quy định pháp luật. Từ đó, tòa giữ nguyên
quyết định ADBPKCTT.
phản tố yêu cầu ông Đông phải trả
lại con dấu cho công ty để tiêu hủy
và bồi thường hơn 40 triệu đồng do
việc chiếm giữ trái phép con dấu.
Trong khi chờ xét xử, ông Hiếu có
đơn đề nghị tòa áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời (ADBPKCTT)
buộc ông Đông phải trả lại con dấu
cho công ty. Ngày 11-3, TAND tỉnh
VĩnhLong raquyết địnhADBPKCTT
(cấm hoặc buộc thực hiện hành vi
nhất định) buộc ông Đông phải trả
lại con dấu.
Ông Đông khiếu nại yêu cầu hủy
quyết định này vì cho rằng nội dung
quyết định trái với đơn phản tố bổ
sung ngày 24-10-2018 của ông Hiếu
là yêu cầu tòa hủy con dấu. Cạnh
đó, ông Hiếu đã có những sai phạm
trong quá trình điều hành công ty,
ông Đông là thành viên nên được
quyền giữ con dấu. Nếu buộc ông
trả lại con dấu chẳng khác nào giúp
cho ông Hiếu hợp thức hóa các hóa
đơn, chứng từ để đối phó với kiểm
toán. Ông này cam kết khi công ty
có yêu cầu đóng dấu các văn bản,
hóa đơn, chứng từ hợp pháp hợp
lệ thì ông sẽ cho sử dụng con dấu.
Ngày 21-2, ông Đông cũng gửi
đơn tố cáo đến công an tỉnh (có biên
bản tiếp nhận nguồn tin tố giác tội
phạm) cho rằng ông Hiếu có hành
vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản và đưa hối lộ...
Đang cưỡng chế
trả con dấu
Ngày 20-3, chánh án TAND tỉnh
Vĩnh Long ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại, cho rằng con dấu
thể hiện vị trí pháp lý của doanh
nghiệp, khẳng định giá trị pháp lý
của các văn bản và các giấy tờ của
công ty. Do vậy, không có con dấu
sẽ ảnh hưởng đến hoạt động, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công ty. Theo quy định thì con
dấu phải do người đứng đầu công
ty, người đại diện hợp pháp của
công ty, tức là ông Hiếu chịu trách
nhiệm quản lý, sử dụng.
Sau đó Cục Thi hành án dân sự
(THADS) tỉnh Vĩnh Long ủy thác
cho Chi cục THADS quận Bình
Tân (TP.HCM) thi hành quyết định
ADBPKCTT. Ngày 15-3, Chi cục
THADS quận Bình Tân ra quyết
định THAvà quyết định cưỡng chế
trả vật, cụ thể buộc ông Đông trả vật
là con dấu cho Công ty Hiếu Phụng.
Nhưng ông Đông không đồng ý và
khiếu nại quyết định cưỡng chế.
Chi cục THADS quận Bình Tân
cho rằng việc ông khiếu nại không
làm vô hiệu quyết định có hiệu lực
của tòa. Quyết định cưỡng chế trả
vật căn cứ trên quyết định của tòa,
đúng pháp luật và không bị VKSND
quận kháng nghị. Việc ông khiếu
nại sau này được tòa quyết định
bằng bản án hay quyết định sẽ được
thi hành theo yêu cầu của ông. Vì
vậy, đề nghị ông Đông trả con dấu
cho công ty, nếu không sẽ đề nghị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
không chấp hành bản án theo quy
định của BLHS. Ông Đông cho
biết sẽ tiếp tục khiếu nại đến Cục
THADS TP.HCM.
Ngày 5-4 vừa qua, PV
Pháp Luật
TP.HCM
đã liên hệ TAND tỉnhVĩnh
Long để tìm hiểu vụ việc. Theo cơ
quan này, quyết địnhADBPKCTTbị
khiếu nại, tòa đã có trả lời và đây là
quyết định giải quyết cuối cùng. Tòa
bảo lưu quan điểm như trong quyết
định giải quyết khiếu nại và từ chối
trả lời thêm.
LiênhệvớiVKSNDtỉnhVĩnhLong,
cơ quan này cho biết đồng tình với
quyết địnhADBPKCTT vì tòa đã áp
dụng đúng các căn cứ pháp luật theo
đơn yêu cầu của bị đơn. Về việc ông
Đông tố cáo ôngHiếu, VKS xác định
chưa thụ lý tin tố giác này. Trong khi
đó, Công an tỉnhVĩnh Long cho biết
Phòng Cảnh sát kinh tế đã thụ lý tin
tố giác của ông Đông và đang điều
tra. Khi nào có kết quả sẽ thông báo
cho ông Đông sau.•
Bà Phạm Thị Tuấn Anh (ngụ huyện Long Thành, Đồng
Nai) vừa gửi đơn đề nghị TAND Cấp cao tại TP.HCM kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án sơ thẩm của TAND
huyện Long Thành vì cho rằng vi phạm nghiêm trọng tố tụng
(có biên nhận đơn). Trong các vi phạm này có việc tòa đã
sửa chữa, bổ sung nội dung bản án làm thay đổi bản chất vụ
tranh chấp trái với Điều 268 BLTTDS 2015.
Theo hồ sơ, năm 2008 cha mẹ bà Anh nhận chuyển
nhượng 10.000 m
2
đất của ông Trương Chánh tại xã An
Phước, huyện Long Thành nhưng chưa làm thủ tục sang tên.
Tháng 6-2008, mẹ bà Anh viết giấy cọc nhận 600 triệu đồng
để bán cho bà Vũ Thị Hoa một phần diện tích 440 m
2
với giá
620 triệu đồng.
Đến năm 2010, mảnh đất 10.000 m
2
mua của ông Trương
Chánh đã được làm thủ tục sang tên cho bà Anh đứng tên
trên giấy đỏ và bà đã thế chấp cho ngân hàng để vay vốn.
Năm 2012, bà Hoa khởi kiện yêu cầu cha mẹ bà Anh phải
tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán đất. Ngày 5-5-2015,
TAND huyện Long Thành xử sơ thẩm đã tuyên chấp nhận
yêu cầu của bà Hoa.
Nhưng hơn hai năm sau, ngày 25-8-2017, chánh án TAND
huyện có quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm nêu
trên. Theo đó tại dòng thứ 13 từ dưới lên, trang 5 của bản án
đã ghi: “Buộc bà Phạm Thị Tuấn Anh cùng với vợ chồng bà
Hoa - ông Niên (tức cha mẹ bà Anh - PV) có trách nhiệm
làm thủ tục chuyển nhượng QSDĐ cho nguyên đơn là bà
Vũ Thị Hoa theo quy định”. Nay sửa chữa, bổ sung như sau:
“Các đương sự có trách nhiệm đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đăng ký QSDĐ theo quy định của pháp luật”.
Theo bà Anh, việc sửa chữa nội dung của bán án của tòa là
sai vì làm thay đổi bản chất vụ án. Từ việc sửa chữa này mà
UBND huyện Long thành đã ra quyết định thu hồi QSDĐ do
bà đứng tên trái quy định.
Theo luật sư Trần Cao Đại Kỳ Quân (Đoàn Luật sư tỉnh
Đồng Nai), khoản 1 Điều 268 BLTTDS 2015 (về sửa chữa,
bổ sung bản án) quy định rõ: Sau khi tuyên án xong thì
không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát
hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính
toán sai. Như vậy, việc TAND huyện Long Thành sửa chữa
cả nội dung bản án làm sai lệch cả nội dung đã tuyên trước
đó là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Không những vậy tòa
này còn sửa khi bản án này đã có hiệu lực pháp luật còn ảnh
hưởng đến quyền kháng cáo của các đương sự. Bà Anh có
quyền và có cơ sở yêu cầu người có thẩm quyền kháng nghị
để hủy toàn bộ bản án này, giải quyết lại từ đầu.
VŨ HỘI
Tòa sửa chữaphầnnội dungbảnán là trái luật
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook