6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứHai12-12-2022
Khu vực ông T nhận cọc bán đất. Ảnh: VH
Không có
đất bán
vẫn nhận
tiền cọc
hàng tỉ đồng
Khôngđượcủyquyềnbánđấtnhưngmột
giámđốcvẫnnhậncọchàng tỉđồngcủa
nhiềungười;VKSchorằngcódấuhiệu
tộiphạm, cônganđangxácminhđơntốcáo.
VŨHỘI
V
ừa qua, VKSND tỉnh Đồng
Nai xác định một vụ nhận
tiền cọc bán đất nhưng thực
tế không có đất để bán là có dấu
hiệu tội phạm.
Từ đó, VKS chuyển đơn tố cáo
đến cơ quan điều tra để thụ lý, xác
minh theo thẩm quyền. Trước đó,
cơ quan điều tra đã kết luận vụ việc
này chỉ là giao dịch dân sự.
Chưa biết đất ở đâu,
đã đặt cọc mua đất
Phản ánh đến
Pháp Luật TP.HCM
,
hàng chục người dân cho biết ông
VĐT, giám đốc một công ty tại
huyện Thống Nhất (Đồng Nai),
nhận tiền cọc và hứa bán cho họ đất
tại dự án khu dân cư A1, C1 (khu
Ông T nhận tiền cọc bán
đất vài tỉ đồng nhưng
khi được yêu cầu dẫn đi
xem đất và giao toàn bộ
giấy tờ, hồ sơ pháp lý liên
quan đến khu đất đã
nhận cọc thì ông không
thực hiện.
Ông VĐT không phản hồi
Để làm rõ nội dung tố cáo của người dân, PV đã nhiều lần liên hệ ông
VĐT. Tuy nhiên, trong nhiều ngày, PV gọi điện thoại nhiều lần cho ông vào
số máy ông thường dùng (trong đó có dùng để giao dịch nhận tiền cọc
mua bán đất) nhưng ông không bắt máy, nhắn tin ông cũng không trả lời.
đô thị Dầu Giây, tại thị trấn Dầu
Giây, huyện Thống Nhất, do Công
ty TNHH Đầu tư Phú Việt Tín làm
chủ đầu tư).
Sự việc diễn ra từ đầu năm 2018
đến năm 2019. Khi đó, ông VĐT
giới thiệu đã được chủ đầu tư ủy
quyền cho bán đất nền dự án khu
đô thị Dầu Giây. Do tin tưởng nên
nhiều người đã đặt cọc từ 100 triệu
đến 300 triệu đồng để mua đất dự
án. Số tiền ông T nhận cọc bán đất
cho người dân lên đến vài tỉ đồng.
Sau đó, người mua yêu cầu ông
T dẫn đi xem vị trí đất và giao toàn
bộ giấy tờ, hồ sơ pháp lý liên quan
đến khu đất đã nhận cọc nhưng ông
này không thực hiện mà lẩn tránh.
Người dân tìmhiểu thì được biết chủ
đầu tư không ủy quyền, không giao
cho ông này nhận tiền đặt cọc đất.
Nhiều lần liên hệ ông T để đòi
lại tiền nhưng ông luôn lẩn tránh,
người mua đành tố cáo ông lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
Về phía chủ đầu tư dự án này, trao
đổi với PV, ông Đặng Phước Dừa,
Chủ tịch HĐTV Công ty Phú Việt
Tín, khẳng định công ty không giao
và không biết việc ông VĐT bán
các lô đất tại Khu 2 cho người dân.
Công an huyện Thống Nhất cũng
xác nhận Công ty Phú Việt Tín
không giao cho ông VĐT bán các
lô đất tại Khu 2.
Công an nói quan hệ
dân sự, VKS cho rằng
có dấu hiệu tội phạm
Xử lý đơn tố cáo của người dân,
ngày 17-7-2021, Cơ quan CSĐT
Công an tỉnh Đồng Nai thông báo
rằng trong hợp đồng và phiếu thu
không có nội dung thể hiện lô đất
thuộc dự án khu dân cưA1- C1 khu
đô thị Dầu Giây. Ngoài ra, trong
điều khoản hợp đồng đặt chỗ có
quy định: “Nếu xảy ra tranh chấp,
các bên thương lượng giải quyết.
Trong trường hợp không giải quyết
được thì một trong hai bên có quyền
khởi kiện để yêu cầu tòa có thẩm
quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật”.
Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an
tỉnh Đồng Nai xác định vụ việc trên
là tranh chấp hợp đồng dân sự, thuộc
thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Không đồng ý với thông báo trả
lời của Cơ quan CSĐT Công an
tỉnh Đồng Nai, người dân tiếp tục
tố cáo và khiếu nại.
Ngày 25-2-2022, Văn phòng Cơ
quan CSĐTCông an tỉnh Đồng Nai
trả lời khiếu nại và khẳng định:
“Thông báo trả lời của Cơ quan
CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai là có
căn cứ, đúng quy định pháp luật”.
Tuy nhiên, ngày 4-11, VKSND
tỉnh Đồng Nai gửi giấy báo tin cho
người dân, xác định vụ việc có dấu
hiệu tội phạm. Do đó, VKSND tỉnh
ĐồngNai chuyển hồ sơ đến Cơ quan
CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai để
thụ lý, xác minh theo thẩm quyền.•
Vừa qua, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban
hành Nghị quyết 03/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại các điều 304, 305, 306, 307 và 308
BLHS về các tội liên quan đến vũ khí, vật liệu nổ, công cụ
hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1-11-2022.
Đáng chú ý, Điều 3 nghị quyết đã hướng dẫn cụ thể về
chín tình tiết là dấu hiệu định tội của các tội phạm này. Cụ
thể:
- Chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự (khoản 1 Điều 304 BLHS) là làm mới hoàn
toàn hoặc lắp ráp từ những bộ phận chi tiết của vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự và có giá trị sử
dụng theo tính năng, tác dụng của chúng mà không được
sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền.
Cũng được coi là chế tạo trái phép vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự đối với trường hợp cơ sở
sản xuất của lực lượng vũ trang và những cơ sở khác có
giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được sản
xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân
sự (theo danh mục) nhưng lại sản xuất, lắp ráp vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự loại khác (ngoài
danh mục). Hoặc chế tạo nhiều hơn số lượng cho phép,
trừ trường hợp nghiên cứu cải tiến sản xuất vũ khí mới
theo đề tài khoa học đã được cấp thẩm quyền phê duyệt.
- Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự (khoản 1 Điều 304 BLHS) là cất giữ vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà không được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Nơi tàng trữ
có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong
hành lý hoặc cất giấu ở bất kỳ vị trí nào khác mà người
phạm tội đã chọn…
- Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện
kỹ thuật quân sự (khoản 1 Điều 304 BLHS) là hành vi
chuyển dịch vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân
sự từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác,
từ người này sang người khác, từ quốc gia này sang quốc
gia khác hoặc hành vi khác chuyển dịch vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự khác mà không có mệnh
lệnh của người có thẩm quyền hoặc giấy phép vận chuyển
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng bất kỳ phương
tiện nào (trừ hình thức chiếm đoạt) nhưng không nhằm
mục đích mua bán.
- Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự (khoản 1 Điều 304 BLHS) là sử dụng vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà không có
giấy phép hoặc không được phép của người hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm phát huy tác dụng của vũ
khí, phương tiện đó. Ví dụ: Hành vi sử dụng súng quân
dụng là lên đạn, bóp cò; hành vi sử dụng lựu đạn là rút
chốt, giật nụ xùy.
- Mua bán trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự (khoản 1 Điều 304 BLHS) là hành vi mua
bán không có giấy phép hoặc không được phép của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
- Chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật
quân sự (khoản 1 Điều 304 BLHS) bao gồm các hành
vi cướp, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt,
tham ô, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt hoặc các hành vi chiếm đoạt khác…
- Chế tạo trái phép vật liệu nổ (khoản 1 Điều 305
BLHS) là hành vi làm ra, chế biến, pha chế tạo ra vật liệu
nổ mà không được sự cho phép của cơ quan, người có
thẩm quyền…
- Các hành vi tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ (khoản 1 Điều 305)
và tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc
công cụ hỗ trợ (khoản 1 Điều 306 BLHS) được áp dụng
theo hướng dẫn tại các khoản trên.
- Vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, sửa chữa,
trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, mua bán
hoặc tiêu hủy vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thể thao,
vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ (khoản 1 Điều 307 BLHS) là
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng về quản lý
việc sản xuất, sửa chữa, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu
giữ, vận chuyển, mua bán hoặc tiêu hủy vũ khí quân dụng,
súng săn, vũ khí thể thao, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo
quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và
công cụ hỗ trợ cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác
có liên quan.
YẾN CHÂU
Hướngdẫn9 tình tiết định tội các tội phạmvề vũkhí, vật liệunổ...