6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứBa 3-1-2023
hợp đồng.
Cụ thể, Điều 585 BLDS 2015 quy
định một trong những nguyên tắc
bồi thường thiệt hại là người chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại
có thể được giảm mức bồi thường
nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý
và thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của mình.
Ở đây, thiệt hại quá lớn so với khả
năng kinh tế của người chịu trách
nhiệmbồi thườngđược hiểu là trường
hợp có căn cứ chứng minh rằng nếu
tòa án tuyên buộc bồi thường toàn
bộ thiệt hại thì không có điều kiện
thi hành án.
Ví dụ, một người vô ý làm cháy
nhà người khác gây thiệt hại 1 tỉ
đồng. Người gây thiệt hại có tổng
tài sản là 100 triệu đồng, thu nhập
trung bình hằng tháng là 2 triệu
đồng. Mức thiệt hại này được xác
định là quá lớn so với khả năng kinh
tế của người gây thiệt hại.
Một nguyên tắc khác cũng được
áp dụng trong bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng đó là bên bị thiệt
hại có một phần lỗi đối với thiệt hại
xảy ra thì không được bồi thường
thiệt hại tương ứng với phần lỗi đó
(khoản 4 Điều 585).
Nghị quyết 02 nêu ví dụ có thể áp
dụng nguyên tắc này đó là trường
hợp A và B cùng lái ô tô tham gia
giao thông, xảy ra tai nạn do đâm
va vào nhau dẫn đến A bị thiệt hại
100 triệu đồng. Cơ quan có thẩm
quyền xác định A và B cùng có lỗi
với mức độ lỗi của mỗi người là
50%. Trường hợp này, B phải bồi
thường 50 triệu đồng cho A (50%
thiệt hại).
Về tình tiết bên có quyền, lợi ích
bị xâmphạmkhông được bồi thường
nếu thiệt hại xảy ra do không áp
dụng các biện pháp cần thiết, hợp
lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại
cho chính mình (khoản 5 Điều 585
BLDS), tình tiết này được hiểu là
trường hợp bên có quyền, lợi ích
bị xâm phạm biết, nhìn thấy trước
việc nếu không áp dụng biện pháp
ngăn chặn thì thiệt hại sẽ xảy ra và
có đủ điều kiện để áp dụng biện
pháp ngăn chặn, hạn chế được
thiệt hại xảy ra nhưng đã để mặc
thiệt hại xảy ra thì bên có quyền,
lợi ích bị xâm phạm không được
bồi thường thiệt hại.
Có thể lấy ví dụ, nhà của A bị
cháy, B đỗ ô tô gần nhà A, B biết
được nếu không di dời thì khả năng
đám cháy sẽ lan sang làm cháy ô tô
của B và B có điều kiện để di dời
nhưng B đã bỏ mặc dẫn đến ô tô
bị cháy. Trường hợp này, B không
được bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm của chủ
sở hữu khi tài sản
gây thiệt hại
Điều 584 BLDS 2015 quy định
trường hợp tài sản gây thiệt hại thì
chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản
phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại
phát sinh là do sự kiện bất khả
kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của
bên bị thiệt hại…
Theo Hội đồng thẩm phán TAND
Tối cao, việc áp dụng quy định trên
được thực hiện theo nguyên tắc,
người chiếm hữu mà không phải
là chủ sở hữu thì phải bồi thường
thiệt hại nếu đang nắm giữ, chi phối
trực tiếp hoặc gián tiếp tài sản như
chủ thể có quyền đối với tài sản tại
thời điểm gây thiệt hại.
Lấy ví dụ, A là chủ sở hữu ô tô đã
giao ô tô đó cho B, B lái ô tô tham
gia giao thông gây tai nạn và gây
thiệt hại thì cần phân biệt:
- NếuA thuê B lái ô tô và trả tiền
công cho B, việc sử dụng ô tô là do
Aquyết định. Trong trường hợp này,
YẾNCHÂU
K
ể từ ngày 1-1, Nghị quyết
02/2022/NQ-HĐTP (Nghị
quyết 02) hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLDS 2015
về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng của Hội đồng
thẩm phán TAND Tối cao chính
thức có hiệu lực thi hành.
Nghị quyết này thay thế Nghị
quyết 03/2006 và hướng dẫn chi tiết
nhiều điểm mới của BLDS 2015.
Nhiều ví dụ cụ thể
Không chỉ nêu cách hiểu, cách
áp dụng quy định của BLDS 2015
mà Nghị quyết 02 còn có những ví
dụ rất chi tiết khi đưa ra các hướng
dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài
Nghị quyết nêu ví dụ cụ thể về trách nhiệmbồi thường khi hai xe va chạmnhau nhưng chuyên gia cho rằng ví dụ này
có thể làmphát sinh bất cập. Ảnh: NGUYỄNYÊN
Hướng dẫn
mới về bồi
thường thiệt
hại ngoài
hợp đồng
Hội đồng thẩmphán TANDTối cao
đã hướng dẫn rất cụ thể về nguyên tắc
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo Điều 585 BLDS 2015.
A là người chiếm hữu, chi phối đối
với ô tô. Do đó, A phải chịu trách
nhiệmbồi thường thiệt hại, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác.
- Nếu A giao ô tô cho B thông
qua hợp đồng cho thuê tài sản hợp
pháp, việc sử dụng ô tô là do B
quyết định. Trong trường hợp này,
B là người chiếm hữu, chi phối đối
với ô tô. Do đó, B phải bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
Còn đối với chủ sở hữu tài sản
thì khi tài sản gây thiệt hại sẽ phải
bồi thường phần thiệt hại này trừ
trường hợp người chiếm hữu phải
chịu trách nhiệm như đã nêu trên.
Chủ sở hữu tài sản được xác định
tại thời điểm tài sản gây thiệt hại
theo quy định của pháp luật. Trường
hợp tài sản đang được giao dịch thì
phải xác định thời điểm chuyển giao
quyền sở hữu để xác định chủ sở
hữu tài sản gây thiệt hại.
Ví dụ, A bán nhà cho B, hợp
đồng mua bán nhà đã được công
chứng, B đã giao 80% tiền mua
nhà cho A nhưng chưa nhận nhà
thì nhà bị cháy, cháy lan sang nhà
C gây thiệt hại. Theo khoản 1 Điều
12 của Luật Nhà ở 2014 thì thời
điểm chuyển giao quyền sở hữu là
thời điểm bên mua đã thanh toán
đủ tiền và nhận nhà, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác. Trường
hợp này, B chưa thanh toán đủ tiền
và chưa nhận bàn giao nhà nên A
chưa chuyển giao quyền sở hữu
nhà cho B. Vì vậy, A vẫn là chủ sở
hữu hợp pháp đối với ngôi nhà và
phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho C.•
Tôi là người được Bộ Tư pháp giao nhiệm vụ viết lại
chương bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trước
khi dự thảo sửa đổi BLDS 2015 được thông qua, tôi
cũng là người được Quốc hội mời hoàn thiện dự thảo.
BLDS trước đây và hiện nay đều ghi nhận nguyên tắc
bồi thường toànbộ thiệt hại.TheoBLDS2005 cóhai cách
hiểu: Thứ nhất, là toàn bộ thiệt hại xảy ra trong thực tế
(dù chưa được hướng dẫn cụ thể ở một văn bản); thứ
hai là toàn bộ thiệt hại được pháp luật quy định. Khi
trình Bộ Tư pháp dự kiến sửa đổi BLDS, tôi đã thêm từ
“thực tế”để khẳng định BLDS 2015 theo quan điểm thứ
nhất. Vì vậy, Nghị quyết 02 giải thích theo hướng“là tất
cả thiệt hại thực tế xảy ra đều phải được bồi thường”là
phù hợp với tinh thần của BLDS 2015.
Tương tự, nguyên tắc bồi thường“kịp thời”đã được
ghi nhận trước đó nhưng chưa cụ thể. Nghị quyết 02
có điểm tiến bộ là hướng dẫn khá chi tiết về nguyên
tắc này như buộc thực hiện trước một phần nghĩa
vụ, cần giải quyết bồi thường ngay trong vụ án hành
chính hay hình sự để bảo vệ tốt hơn người bị thiệt hại.
Tuy nhiên, khi làm rõ nguyên tắc, nghị quyết có nêu
“thiệt hại phải được bồi thường nhanh chóng nhằm
ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại”là chưa thuyết
phục vì bồi thường kịp thời không phải “nhằm ngăn
chặn, hạn chế” mà để là nhằm nhanh chóng “khắc
phục thiệt hại”.
Cạnh đó, khi làm rõ các nguyên tắc bồi thường, nghị
quyết đưa ramột số ví dụgiúp tòa ándễdànghơn trong
việc áp dụng giải quyết bồi thường. Tuy nhiên, các ví
dụ có thể lại làm phát sinh bất cập.
Đơn cử như về bên bị thiệt hại có lỗi một phần, nghị
quyết đưa ra ví dụ A và B cùng có lỗi bằng nhau khi lái
ô tô đâm va vào nhau với hướng B phải bồi thường 50
triệu đồng cho A khi A có thiệt hại là 100 triệu đồng.
Thực tế, khi va chạm nhau thì thường B cũng có thiệt
hại. Giả sử B cũng bị thiệt hại với mức là 80 triệu đồng
thì kết luậnBbồi thường choA khoản tiền 50 triệuđồng
là không chính xác. Ở đây, A còn phải bồi thường cho
B 40 triệu đồng nên cuối cùng B chỉ phải bồi thường
cho A 10 triệu đồng (sau khi cấn trừ).
Hoặc ví dụ vềngăn chặn, hạn chế thiệt hại, nghị quyết
hướngdẫn theohướngBkhôngcóbiệnphápngănchặn,
hạn chế thì không được bồi thường thiệt hại.Tuy nhiên,
không nên hiểu là B không được bồi thường thiệt hại
trongmọi trường hợp vì chỉ thiệt hại mà B đáng ra ngăn
chặn, hạn chế được mới không được bồi thường (thiệt
hại khác của B vẫn có thể được bồi thường).
GS-TS
ĐỖVĂN ĐẠI
,
Trường ĐH Luật TP.HCM
Ví dụ cụ thể nhưng có thể lại làm phát sinh bất cập
Người chiếm hữu mà
không phải là chủ sở
hữu thì phải bồi thường
thiệt hại nếu đang nắm
giữ, chi phối trực tiếp
hoặc gián tiếp tài sản
như chủ thể có quyền đối
với tài sản tại thời điểm
tài sản gây thiệt hại.
GS-TSĐỗVănĐại, TrườngĐHLuật TP.HCM.