214-2023 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Sáu22-9-2023
TSPHANANHTUẤN,
D
ự thảo Luật Tổ chức TAND
(sửa đổi) đang được đưa ra
lấy ý kiến đóng góp. Một
trong những điểm đáng chú ý là
dự thảo mới nhất (dự thảo 4) quy
định: “Thẩm phán có bản án, quyết
định bị hủy, sửa chỉ phải chịu trách
nhiệm khi có lỗi chủ quan” (khoản
5 Điều 102).
Quy định chưa thể hiện
tính công bằng
Về các trường hợp được miễn
trách nhiệm đối với cán bộ, công
Chiều 21-9, Trường ĐH Luật TP.HCM tổ chức lễ công
bố quyết định công nhận hiệu trưởng Trường ĐH Luật
TP.HCM nhiệm kỳ 2020-2025.
Tham dự buổi lễ có PGS-TS Nguyễn Kim Sơn, Ủy viên
Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
Nhà trường cũng đã ra thông cáo báo chí về sự kiện rất
quan trọng này.
Cụ thể, ngày 14-7-2023, hội đồng Trường ĐH Luật
TP.HCM nhiệm kỳ 2020-2025 đã ban hành Nghị quyết
100/NQ-HĐT về việc thống nhất đề nghị bổ nhiệm TS Lê
Trường Sơn, Phó Hiệu trưởng phụ trách, giữ chức vụ hiệu
trưởng Trường ĐH Luật TP.HCM nhiệm kỳ 2020-2025.
Ngày 14-9-2023, bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ký ban hành
Quyết định 2679/QĐ-BGDĐT về việc công nhận hiệu
trưởng Trường ĐH Luật TP.HCM nhiệm kỳ 2020-2025.
Theo đó, công nhận TS Lê Trường Sơn, Phó Hiệu trưởng
phụ trách, giữ chức vụ hiệu trưởng Trường ĐH Luật
TP.HCM nhiệm kỳ 2020-2025.
Phát biểu tại buổi lễ, tân Hiệu trưởng Lê Trường Sơn cảm
thấy vinh dự và trách nhiệm khi đảm nhận trọng trách mới
này, đồng thời khẳng định đây là một dấu mốc quan trọng
trong sự phát triển của Trường ĐH Luật TP.HCM.
Phát biểu chỉ đạo và giao nhiệm vụ, Bộ trưởng Nguyễn
Kim Sơn chia sẻ niềm vui lớn lao khi lần đầu tiên đến thăm
nhà trường. Bộ trưởng cũng gửi lời chúc mừng và mong
muốn nhà trường đoàn kết, thống nhất, một lòng.
TS Lê Trường Sơn sinh năm 1971, tốt nghiệp cử nhân
luật năm 1994 tại Phân hiệu ĐH Luật TP.HCM (nay là
Trường ĐH Luật TP.HCM).
Ông Lê Trường Sơn bắt đầu công tác tại Trường ĐH
Luật TP.HCM từ năm 1995 và kinh qua nhiều công tác,
chức vụ quản lý tại các đơn vị thuộc trường. Từ tháng
4-2013 đến hết tháng 4-2023, ông giữ chức vụ phó hiệu
trưởng. Từ tháng 5 đến nay, ông được giao phụ trách
Trường ĐH Luật TP.HCM.
Trong suốt thời gian gần 30 năm làm việc tại trường,
trong đó có hơn 15 năm làm công tác quản lý, hơn 10 năm
giữ chức vụ, ông luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, nhận được sự tín nhiệm cao của Đảng ủy trường, hội
đồng trường, viên chức và người lao động Trường ĐH Luật
TP.HCM. Với bề dày kinh nghiệm, thành tích quản lý và sự
tín nhiệm nêu trên, TS Lê Trường Sơn được kỳ vọng sẽ tiếp
tục kế thừa các thành quả đã đạt được của các thế hệ lãnh
đạo trường trước đó, cùng với tập thể lãnh đạo trường liên
tục đổi mới, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi chiến
lược phát triển Trường ĐH Luật TP.HCM đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045.
Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Trường ĐH
Luật TP.HCM thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về
pháp luật; trung tâm nghiên cứu và truyền bá pháp lý hàng
đầu trong các cơ sở đào tạo pháp luật của Việt Nam, có
vai trò dẫn dắt trong hệ thống các cơ sở đào tạo luật của cả
nước, có uy tín trong khu vực Đông Nam Á và thế giới” -
thông cáo báo chí của nhà trường nêu.
MINH CHUNG - TUYẾT HỒNG
Không nên
quy định
thẩm phán
chỉ phải chịu
trách nhiệm
khi có lỗi
chủ quan
Trường ĐH Luật TP.HCM
HĐXXmột phiên tòa hình sự tại TANDTP.HCM. Ảnh: HỮUĐĂNG
Dù không phải lỗi cố ý cũng không thể thoái
thác trách nhiệm
Nhiều ý kiến ủng hộ quy định này có lẽ là dựa vào khoản 3 Điều 2 Quyết
định 120/2017 của Chánh án TAND Tối cao. Theo đó, bản án, quyết định
bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của thẩm phán là những bản án, quyết định
bị hủy, sửa nhưng không thuộc các trường hợp như phát sinh các tình
tiết mới, do người tham gia tố tụng thay đổi yêu cầu, do người bị kết án
khắc phục hậu quả, do chuyển biến tình hình, do thay đổi pháp luật...
Nhiều ý kiến khác đồng tình với đề xuất vì cho rằng thẩm phán có lỗi
khách quan là do quan điểm đánh giá chứng cứ của thẩm phán đó chưa
chính xác, việc hiểu và áp dụng pháp luật của thẩm phán với vụ án đó là
chưa đúng chứ không phải do cố tình làm sai.
Việc thẩm phán có lỗi do quan điểm đánh giá chứng cứ, việc hiểu và
vận dụng pháp luật chưa đúng hay vì năng lực yếu kém (như cho rằng
không cần thiết phải tiến hành hoạt động tố tụng đó)…dù không phải cố
ý nhưng không thể thoái thác trách nhiệm trong những trường hợp này.
Có chăng thì mức độ xử lý đối với những lỗi này sẽ được cân nhắc. Ví dụ,
như việc xử lý sẽ nhẹ hơn chứ không thể không truy trách nhiệm được.
Mặt khác, hiện nay số lượng án bị hủy, sửa vẫn còn rất cao nên nếu quy
định như vậy sẽ tạo tâm lý chủ quan, giảm tính thận trọng của thẩmphán
khi thực thi nhiệm vụ cũng như khi ban hành bản án hoặc quyết định.
Luật sư
TRẦN CAO ĐẠI KỲ QUÂN
,
Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai
“Phân hóa xử lý vi
phạm theo dấu hiệu lỗi
là không phù hợp với
nguyên tắc chung của
pháp luật khi xử lý vi
phạm.”
TS
Phan Anh Tuấn
TrườngĐHLuật TP.HCMchính thức cóhiệu trưởng
Bộ trưởng Bộ GD&ĐTNguyễn KimSơnmongmuốn tập thể Trường ĐHLuật TP.HCMđoàn kết, thống nhất, một lòng.
Bộ trưởng BộGD&ĐTNguyễn KimSơn trao quyết định
cho TS Lê Trường Sơn. Ảnh: TUYẾTHỒNG
chức, Điều 77 Luật Cán bộ, công
chức quy định gồm: Phải chấp hành
quyết định trái pháp luật của cấp trên
nhưng đã báo cáo người ra quyết
định trước khi chấp hành; do bất khả
kháng theo quy định của pháp luật.
Như vậy, mọi công chức khi thi
hành công vụ nếu có lỗi khi vi phạm
pháp luật (cố ý hoặc vô ý) đều bị
xử lý kỷ luật. Do đó việc quy định
một đặc quyền đối với thẩm phán
là “thẩm phán có bản án, quyết
định bị hủy, sửa chỉ phải chịu trách
nhiệm khi có lỗi chủ quan” là không
công bằng so với công chức nhà
nước khác.
Về mặt lý luận, khái niệm lỗi chủ
quan chưa có trong lý luận về lỗi
trong pháp luật hiện hành. Do đó,
xác định nội hàm của lỗi chủ quan
như thế nào thì chưa rõ. Về mặt thực
tiễn, việc xác địnhmột trường hợp vi
phạmpháp luật là lỗi chủ quan là như
thế nào cũng không rõ ràng, khó xác
định, dẫn đến không thể xử lý được
trường hợp thẩmphán ra quyết định,
bản án trái pháp luật.
Không phù hợp
nguyên tắc chung khi
xử lý vi phạm
Ngoài ra, việc dự thảo phân hóa xử
lý vi phạm theo dấu hiệu lỗi khi thẩm
phán rabảnán, quyết địnhkhôngđúng
pháp luật chỉ phải chịu trách nhiệm
khi có lỗi chủ quan là không phù hợp
với nguyên tắc chung của pháp luật
khi xử lý vi phạm là theo tính chất,
mức độ vi phạm (tính nguy hiểmcủa
hành vi vi phạm).
Điều này sẽ dẫn đến sự không hợp
lý khi xử lý vi phạm. Chẳng hạn như
nếu thẩm phán ra bản án, quyết định
gây hậu quả nghiêm trọng nhưng xác
định là do lỗi chủ quan thì không bị
xử lý vi phạm. Điều này không đúng
với quy định hiện hành về xử lý kỷ
luật công chức và xử lý hình sự.
Cụ thể, luật hình sự hiện hành quy
định đối với trường hợp ra bản án,
quyết định trái pháp luật tại Điều 370,
Điều 371 BLHS năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017 khi thẩm phán ra
bản án, quyết định mà mình biết rõ
là trái pháp luật thì sẽ bị xử lý hình
sự. Đối với trường hợp có lỗi vô ý
thì có thể bị xử lý về tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
(Điều 360 BLHS).
Như vậy, với việc quy định thẩm
phán nếu ra bản án, quyết định trái
pháp luật chỉ phải chịu trách nhiệm
khi có lỗi chủ quan là không phù
hợp với quy định của BLHS. Điều
này cũng tương tự khi xử lý kỷ luật
thẩm phán nếu ra bản án, quyết định
trái pháp luật theo quy định của Luật
Cán bộ, công chức.•
Thẩmphán cũng là công chức, mọi công
chức khi thi hành công vụ nếu có lỗi khi vi
phạmpháp luật (cố ý hoặc vô ý) đều bị xử
lý kỷ luật.
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook