7
Luật & đời
(Tiếp theo trang 1)
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Hai16-10-2023
Ủy ban thua kiện
vì thất lạc hồ sơ
cấp sổ hồng
Cả UBNDhuyện và Sở TN&MT đều cho rằng việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ hồng) cho người dân là đúng
nhưng lại không cung cấp được đầy đủ hồ sơ.
UBNDhuyệnĐức Trọng. Ảnh: HIẾUNGHĨA
Theo tòa, nội dung đơn
đăng ký quyền sử dụng
đất ghi có nguồn gốc từ
thừa kế là không đúng
bởi vì thời điểm năm
1992, cụ Bình vẫn còn
sống nên không phát
sinh quan hệ thừa kế
theo Pháp lệnh về thừa
kế năm 1990.
HIẾUNGHĨA
T
ANDtỉnhLâm
Đồng vừa mở
phiên tòa xét
xử vụ khiếu kiện
quyết định hành
chính về quản lý
đất đai giữa người
khởi kiện là bà
Nguyễn Thị Thục
Quyên và người
bị kiện là UBND
huyện Đức Trọng
vàSởTN&MTtỉnh
Lâm Đồng.
Yêu cầu
hủy giấy
chứng nhận
đã cấp đổi
Theo bản án sơ
thẩm, cụ Nguyễn
Thị Bình có ba
người con là các bà Nguyễn Thị
Thục Quyên, Đỗ Thị Thu Liễu và
Đỗ Thị Minh Thư.
Trước năm 1975, cụ Bình có khai
phá một mảnh đất ở thị trấn Liên
Nghĩa (huyện Đức Trọng) và sinh
sống cùng bà Liễu cho đến khi qua
đời vào năm 2014. Thời điểm khai
phá, bà Quyên chưa sinh ra. Sau khi
cụ Bình mất, căn nhà được giao cho
bà Liễu quản lý.
Ngày 26-3-1992, bà Liễu có đơn
xin đăng ký quyền sử dụng ruộng
đất đối với thửa đất nêu trên với
tổng diện tích 258 m
2
đất thổ cư,
có nguồn gốc do thừa kế của mẹ.
Đến năm 2021, bà Liễu bán căn
nhà và thửa đất cho một người khác.
Sau khi bị UBND tỉnh Lâm Đồng
thu hồi một phần diện tích để mở
rộng Quốc lộ 20, người này đã được
Sở TN&MT tỉnh LâmĐồng cấp đổi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và diện tích còn lại gần 160 m
2
.
Ngày 31-3-2023, bà Quyên nộp
đơn khởi kiện UBND huyện Đức
Trọng và Sở TN&MT tỉnh Lâm
Đồng yêu cầu tòa tuyên hủy giấy
chứng nhận của bà Liễu (nay được
điều chỉnh, cấp đổi cho người khác).
Trình bày, bà Liễu cho biết lúc
còn sống cụ Bình đã tặng cho riêng
bà thửa đất trên. Việc tặng cho này
được thực hiện bằng miệng trước
sự chứng kiến của con cụ Bình là
bà Đỗ Thị Minh Thư.
Năm 1992, bà Liễu thực hiện
đăng ký kê khai và đến năm 1993
thì được cấp giấy chứng nhận đúng
quy định của pháp luật. Bà Liễu ở
Vừa qua, dự án Luật Đất đai (sửa đổi) đã được hoàn thiện, chỉnh lý
để chuẩn bị trình Quốc hội (QH) trong kỳ họp thứ sáu. Nhìn chung, dự
thảo lần này đã quy định toàn diện, đầy đủ các vấn đề liên quan đến
đất đai từ chế độ sở hữu đất đai, quyền và trách nhiệm của Nhà nước
đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất… Với kỹ thuật lập pháp khá tốt và mức độ bao phủ rộng,
có đề xuất cho rằng nên đổi tên Luật Đất đai thành Bộ luật Đất đai.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), QH
được quyền ban hành ba loại VBQPPL là hiến pháp; bộ luật, luật
(gọi chung là luật); nghị quyết. Bộ luật và luật được hiểu với tính
chất là một hình thức VBQPPL do QH ban hành nhưng khái niệm bộ
luật, luật lại không được giải thích cụ thể trong hệ thống pháp luật
Việt Nam.
Theo cách hiểu hàn lâm, bộ luật là “VBQPPL do QH ban hành,
tổng hợp có hệ thống theo chương, mục những quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ xã hội quan trọng của từng lĩnh vực trong đời
sống xã hội”. Các từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý ở Việt Nam
cũng đưa ra định nghĩa: “Bộ luật là văn bản luật do QH thông
qua, có giá trị pháp lý cao chỉ sau hiến pháp, tập hợp đầy đủ và có
hệ thống theo chương, mục những quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ xã hội quan trọng của từng lĩnh vực lớn trong đời
sống xã hội”.
Trong khoa học pháp lý, bộ luật và luật đều được gọi chung là
luật. Sự khác nhau giữa bộ luật và luật thường không nhiều. Bộ luật
thường điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội rộng lớn, có tính bao
quát và là “xương sống” của một ngành luật. Trong khi đó, luật có
phạm vi điều chỉnh không rộng lắm. Một văn bản luật không nhất
thiết tạo ra một ngành luật vì một ngành luật có thể sử dụng nhiều
văn bản luật làm cơ sở. Có thể thấy giữa bộ luật và luật đều có
nguồn gốc từ các quy định của hiến pháp, đều do QH ban hành, do
đó đều có vai trò quan trọng và hiệu lực ngang nhau. Trên thực tế,
không có cơ sở pháp lý vững chắc nào cho phép kết luận giữa luật và
bộ luật, văn bản nào có giá trị pháp lý cao hơn.
Từ góc độ thi hành pháp luật, có thể hiểu sự khác nhau chủ yếu giữa
luật và bộ luật là ở mức độ, phạm vi điều chỉnh. Thường bộ luật có tính
tổng hợp cao, phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát, trọn vẹn một lĩnh vực
quan hệ xã hội quan trọng như hình sự, dân sự, lao động, hàng hải.
Trong khi đó, luật chỉ điều chỉnh nhóm, loại quan hệ xã hội hẹp hơn.
Vì lẽ này mà trình độ, kỹ thuật lập pháp cũng như khả năng pháp điển
hóa của bộ luật được xem là mang tính nổi trội hơn so với luật.
Hiện nay, ở nước ta có sáu bộ luật là Bộ luật Hình sự (26 chương với
426 điều), Bộ luật Tố tụng hình sự (36 chương với 510 điều), Bộ luật
Tố tụng dân sự (42 chương với 517 điều), Bộ luật Dân sự (27 chương
với 689 điều), Bộ luật Hàng hải Việt Nam (20 chương với 341 điều), Bộ
luật Lao động (27 chương với 220 điều).
Dự thảo Luật Đất đai lần này có 16 chương với 264 điều. Như vậy,
nếu so với các bộ luật khác đã có trong hệ thống pháp luật Việt Nam
thì số chương và điều trong Luật Đất đai không phải là quá ít. Cụ thể,
số điều luật trong Luật Đất đai nhiều hơn số điều luật trong Bộ luật
Lao động (264 điều so với 220 điều). Số chương thì cũng không có sự
cách biệt so với bộ luật có số chương ít nhất là Bộ luật Hàng hải Việt
Nam (16 chương so với 20 chương).
Bên cạnh đó, Luật Đất đai là một văn bản có phạm vi điều chỉnh
rộng bởi có sự tác động đến hơn 37 luật có liên quan. Quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực đất đai đều
có sự tác động lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Năm 2008, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã đưa ra
nhận định là để đưa Luật Đất đai vào được với cuộc sống thì phải cần
đến hơn 120 văn bản hướng dẫn thi hành. Nếu tính bình quân thì cứ 1
trang Luật Đất đai phải cần đến hơn 19,5 trang văn bản hướng dẫn thi
hành. Đến nay chắc chắn con số đã tăng lên chứ không dừng lại ở mức
19,5 trang. Có thể nói không có lĩnh vực nào mà văn bản pháp luật lại
nhiều như vậy. Chính vì vậy, việc pháp điển hóa để nâng từ Luật Đất đai
đến Bộ luật Đất đai cũng là một ý kiến khá hợp lý.
Việc đổi tên từ Luật Đất đai thành Bộ luật Đất đai có thể đáp ứng
được yêu cầu rộng lớn về phạm vi điều chỉnh. Việc đổi tên này cũng có
thể tác động một cách hiệu quả đến tâm lý chính trị pháp lý trong quá
trình triển khai thi hành. Thế nhưng kỳ vọng về một đạo luật có thể gỡ bỏ
những nút thắt chồng chéo, khơi thông nguồn lực đất đai, giúp ổn định
đời sống xã hội, tiếp thêm động lực cho thị trường bất động sản mới là ý
nghĩa và mục đích sâu xa. Nói cách khác, luật hay bộ luật chỉ có ý nghĩa
với nhà lập pháp. Đối với cá nhân, tổ chức, nội dung và chất lượng của
các quy phạm trong luật hay bộ luật mới là điều trông đợi.
Đạo luật tốt là đạo luật điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội. Sau
tất cả, cá nhân, tổ chức vẫn kỳ vọng vào một văn bản luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội liên quan đến đất đai một cách rõ ràng, cụ thể, hợp
lý. Còn lại luật hay bộ luật cũng chỉ là vấn đề hình thức văn bản.
TS
CAO VŨ MINH
căn nhà đó để nuôi cụ Bình và trông
coi nhà cửa sau khi cụ Bình mất cho
đến khi bán lại căn nhà này cho một
phụ nữ cùng địa phương.
Người bị kiện không cung
cấp được hồ sơ
Đại diệnUBNDhuyệnĐứcTrọng
cho rằng ngày 26-3-1992, bà Liễu
có đơn xin đăng ký quyền sử dụng
ruộng đất đối với thửa đất 549, tờ
bản đồ 02, thị trấn Liên Nghĩa.
Tổng diện tích 258 m
2
đất thổ cư
có nguồn gốc do thừa kế của mẹ.
UBND huyện Đức Trọng đã cấp
giấychứngnhậnchobà.Tuynhiên, cơ
quan này lại cho rằng do thời gian đã
lâu nên toàn bộ hồ sơ cấp giấy chứng
nhận đã bị thất lạc trong quá trình
luân chuyển, lưu trữ hồ sơ trước đây.
Việc bà Liễu khai về nguồn gốc
đất là thừa kế của mẹ, UBND huyện
Đức Trọng cho biết việc điền thông
tin vào đơn đăng ký quyền sử dụng
ruộng đất được thực hiện từ UBND
cấp xã. UBND cấp xã cũng là đơn
vị quản lý trực tiếp nhận hộ khẩu,
khai sinh, khai tử của công dân
trên địa bàn.
Đồng thời, do nhận thức của người
dân thời điểm lúc bấy giờ còn hạn
chế trong việc phân biệt giữa cho
tặng và thừa kế. Do đó có thể nguồn
gốc đất cha mẹ tặng cho nhưng khai
trong hồ sơ là thừa kế.
Sau khi xem xét, TAND tỉnh Lâm
Đồng cho rằng mặc dù bà Liễu
khẳng định thửa đất nói trên là của
cụ Bình tặng riêng cho mình nhưng
lại không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ để chứng minh.
Ngoài ra, phía người bị kiện
UBND huyện Đức Trọng không
cung cấp được bản sao y hồ sơ đăng
ký kê khai cấp giấy chứng nhận cho
bà Liễu. UBND chỉ có bản phôtô
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
B256329 ngày 28-4-1993 và đơn xin
đăng ký quyền sử dụng đất của bà
Đỗ Thị Thu Liễu ngày 26-3-1992.
Trong khi đó, nội dung đơn đăng
ký quyền sử dụng đất ghi có nguồn
gốc từ thừa kế là không đúng. Bởi
vì thời điểm năm 1992, cụ Bình
vẫn còn sống nên không phát sinh
quan hệ thừa kế theo Pháp lệnh về
thừa kế năm 1990.
Từ đó, HĐXX cho rằng việc
UBND huyện Đức Trọng cấp giấy
chứng nhận cho bà Liễu là trái quy
định của pháp luật nên chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của bà Quyên.
Tòa tuyên hủy hai giấy chứng nhận
đã cấp cho bà Liễu và người thứ ba
(bà Liễu đã chuyển nhượng sau đó).•
Bộ luậtĐất đai hay
LuậtĐất đai thì ổnhơn?