6
Tiêu điểm
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Tư31-1-2024
Tình tiết mới tại phiên phúc thẩm chưa được làm rõ
Vụ án
TrầnHùng
và nguyên tắc
suyđoán
vô tội
Trong vụ án TrầnHùng có cả chứng cứ
buộc tội và chứng cứ gỡ tội; nếu chỉ chấp
nhận chứng cứ buộc tội và bác bỏ chứng
cứ gỡ tội thì liệu nguyên tắc suy đoán vô
tội có được đảmbảo?!
TS CAOVŨMINH
V
ụ án sách giả vừa tạm khép
lại bằng bản án phúc thẩm của
TAND Cấp cao tại Hà Nội
tuyên y án chín năm tù đối với bị
cáo Trần Hùng về tội nhận hối lộ.
Bản án này có hiệu lực pháp luật
ngay, song dư âm của vụ án thì vẫn
còn, không chỉ trong giới luật học,
nhất là khi soi rọi nó dưới nguyên
tắc suy đoán vô tội.
Nguyên tắc hiến định
và luật định
Lần đầu tiên nguyên tắc suy đoán
vô tội được TS luật học Cesare
Beccaria phân tích trong cuốn sách
in bằng tiếng Ý vào năm 1764 với
tựa đề
Về tội phạm và hình phạt
(
Dei
Delitti e delle Pene
). Nội dung của
nguyên tắc được thể hiện như sau:
“Không ai có thể bị coi là kẻ phạm
tội khi còn chưa có bản án kết tội
có hiệu lực pháp luật”. Cuốn sách
này tuy chỉ khoảng 100 trang nhưng
chứa đựng rất nhiều nguyên tắc quan
trọng, làm nền tảng cho chính sách
hình sự nhân đạo trong tương lai.
Hơn 20 năm sau, vào năm 1789,
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của nước Pháp tại Điều 9 cũng
một lần nữa khẳng định nguyên tắc
này: “Một người được coi là vô tội
khi anh ta còn chưa bị tuyên là có
tội bởi tòa án”.
Đến năm 1948, tức gần 200 năm
sau, Tuyên ngôn nhân quyền của
Liên hợp quốc đã chính thức ghi
nhận nguyên tắc suy đoán vô tội.
Theo đó, Điều 11 Tuyên ngôn nhân
quyền ghi nhận: “Bất kỳ người nào
bị cáo buộc thực hiện một hành
vi phạm tội đều được xem là vô
tội đến khi tội của người đó được
chứng minh theo thủ tục luật định
trong một phiên tòa công khai với
sự bảo đảm cho người đó tất cả khả
năng cần thiết cho việc bào chữa”.
Trên bình diện quốc tế, bắt đầu từ
năm 1948, nguyên tắc suy đoán vô
tội được thừa nhận rộng rãi với các
nội dung cốt yếu: i) người bị buộc
Thủ tục phá án
Bản án phúc thẩm của TAND Cấp
cao tại Hà Nội có hiệu lực kể từ ngày
tuyên án.
Tuynhiên,theoquyđịnhtạiChương
XXVvàChươngXXVIBLTTHSnăm2015,
bản án này nếu bị Chánh ánTANDTối
cao hoặc Viện trưởng VKSND Tối cao
kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩmvìpháthiệncóviphạmphápluật
nghiêmtrọng trong việc giải quyết vụ
án thì sẽ được Hội đồng Thẩm phán
TANDTối cao xemxét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm.
Trường hợp bản án phúc thẩmnêu
trên bị Viện trưởng VKSND Tối cao
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm vì
có tình tiết mới được phát hiện có thể
làmthay đổi cơ bản nội dung của bản
án mà tòa án không biết được khi ra
bản án thì sẽ được xem xét lại theo
thủ tục tái thẩm.
LS
TRẦNVĂN GIỚI
,
Đoàn LS TP.HCM
Những nhân chứng đều
thừa nhận không chứng
kiến việc Nguyễn Duy
Hải cầm tiền đưa cho
Trần Hùng, không thấy
Trần Hùng nhận.
Bị cáo Trần
Hùng tại
phiên tòa sơ
thẩm. Ảnh:
PHI HÙNG
Tại phiên tòa phúc thẩmcòn xuất hiệnmột tình tiết mới, đó là văn bản xác
nhận của người từng bị giam chung phòng với bị cáoTrần Hùng. Người này
xácnhậnNguyễnVănHải cókểviệcHải đưa tiềnnhưngôngHùngkhôngnhận
và đuổi ra ngoài, Hải buộc phải khai bất lợi cho Trần Hùng vì một số lý do...
VKS và tòa án không sử dụng tình tiết này làm chứng cứ vì cho rằng hình
thức không hợp pháp.
Căn cứ Điều 353 BLTTHS năm 2015 thì tất cả chứng cứ, tài liệu, đồ vật cũ
vàmới đều phải được xemxét tại phiên tòa phúc thẩmvà bản án phúc thẩm
phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới.
Văn bản xác nhận của người giam chung phòng với ông Hùng rõ ràng
không phải là nguồn chứng cứ hợp pháp. Theo Điều 104 BLTTHS, văn bản
này cũng không phải là tài liệu khác trong vụ án. Do đó, tòa án không sử
dụng tình tiết nêu trên để giải quyết vụ án là hoàn toàn có căn cứ và đúng
quy định.
Tuy nhiên, tòa án hoàn toàn có thể vận dụng Điều 352 BLTTHS để hoãn
phiên tòa phúc thẩm nhằm triệu tập người giam chung phòng với ông
Hùng, triệu tập Hải đến phiên tòa để thẩm tra tình tiết mới hoặc để có thời
gian xác minh, thu thập lại lời trình bày của người này tại cơ sở giam giữ, có
thể cho đối chất với Hải nếu cần thiết, căn cứ kết quả thẩm tra sẽ có hướng
giải quyết phù hợp. Lúc đó, phán quyết về vụ án có lẽ sẽ thuyết phục hơn.
LS
PHẠMVIẾT DŨNG
,
nguyên điều tra viên trung cấp, Đoàn LS tỉnh Bình Thuận
tội được coi là không có tội cho tới
khi bị kết tội bởi một bản án có hiệu
lực pháp luật; ii) cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng không
được đối xửvới người bị buộc tội như
người phạmtội, khôngđượcđịnhkiến,
thiên lệchkhi giải quyết vụán; iii) việc
chứngminh tội phạmphải được thực
hiện theomột thủ tục nghiêmngặt do
luật tố tụng hình sự quy định; iv) việc
kết tộimột người phải dựa trên những
chứng cứ xác thực đã được kiểm tra,
xác minh công khai tại phiên tòa và
không còn bất cứ sự nghi ngờ nào;
v) trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về bên buộc tội, người bị buộc
tội có quyền nhưng không có nghĩa
vụ phải chứngminh, mọi sự nghi ngờ
không chứngminh được theo thủ tục
luật định phải được xử lý theo hướng
có lợi cho người bị buộc tội; vi) khi
không đủ căn cứ chứng minh tội
phạm theo thủ tục luật định thì phải
kết luận người bị buộc tội không có
tội, các quyền và lợi ích hợp pháp của
họ phải được khôi phục theo quy định
của pháp luật.
Ở bình diện quốc gia, nguyên tắc
này được thể hiện tại khoản 1 Điều
31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 13
BLTTHS năm 2015.
Chứng cứ kết tội
chưa vững chắc
Trở lại vụ án Trần Hùng,
tối 23-1-
2024, sau hai ngày xét hỏi và tranh
tụng, HĐXX TAND Cấp cao tại
Hà Nội đã tuyên y án chín năm tù
đối với ông Trần Hùng (cựu cục
phó Cục Quản lý thị trường, cựu tổ
trưởng tổ 304, Tổng cục Quản lý thị
trường) về tội nhận hối lộ. Trước
đó, trong phiên xét xử sơ thẩm, ông
Trần Hùng đã bị tòa án tuyên phạt
chín năm tù với cáo buộc nhận hối
lộ 300 triệu đồng nhằm “bảo kê”
cho đường dây sách giáo khoa giả
do bà CaoThị MinhThuận cầmđầu.
Những người được xác định là
nhân chứng đều thừa nhận không
chứng kiến việc Nguyễn Duy Hải
cầm tiền đưa cho ông Trần Hùng,
không thấy ông Trần Hùng nhận;
họ chỉ xác nhận thấy Hải cầm một
bọc nylon, chứ không nhìn thấy
chính xác đó là tiền.
Đáng chú ý, luật sư (LS) viện
dẫn dữ liệu từ cột sóng điện thoại
cho thấy trong khoảng thời gian từ
13 giờ 10 đến 13 giờ 15 ngày 15-
7-2020, điện thoại của ông Hùng
nổi sóng ở khu vực nhà riêng tại
quận Ba Đình, Hà Nội. Theo logic
thông thường, điện thoại cầm tay
ở đâu thì chủ nhân sẽ ở đó nên LS
khẳng định ông Trần Hùng ở quận
Ba Đình, Hà Nội. Điều này đồng
nghĩa ông Hùng có chứng cứ ngoại
phạm, không hề có mặt tại phòng
làm việc ở quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội trong khoảng thời gian từ 13
giờ 10 đến 13 giờ 15 để nhận 300
triệu đồng như cáo buộc.
Đặc biệt, trong quá trình điều
tra, Nguyễn Duy Hải có gần 10 lần
khai về thời gian đưa tiền cho ông
Hùng, các lời khai liên tục thay đổi
và mâu thuẫn với nhau.
Trái ngược với lập luận của LS,
VKS bảo lưu quan điểm và cho rằng
“cột sóng điện thoại ở đó không
có nghĩa là người cũng ở đó”. Thế
nhưng việc chứng minh ông Trần
Hùng có để điện thoại ở một nơi và
đến nơi khác để gặp Hải (và nhận
tiền) đã không được thực hiện. Một
điều đáng quan tâm là dữ liệu cột
sóng điện thoại của ông Hải và ông
Hùng được VKS dùng để xác định
thời điểm, địa điểm đưa nhận tiền
nhưng khi dữ liệu cột sóng được
LS sử dụng để gỡ tội cho ông Hùng
thì VKS lại xác định không đủ căn
cứ xác định con người (tức ông
Hùng) ở đó.
Bản án phúc thẩm đã có hiệu lực
và buộc phải nghiêm chỉnh tuân thủ.
Thế nhưng, với những lý lẽ mà LS
đã đưa ra, rất khó để chứng minh
rằng ông Trần Hùng đã nhận 300
triệu đồng.
Chứng cứ gỡ tội và
nguyên tắc suy đoán
vô tội
Điều 2BLTTHSnăm2015quy định
nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phải
bảo đảm phát hiện chính xác và xử
lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn
tội phạm, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
Hòacùngxu thếdânchủhóa, quyền
con người, quyền công dân ngày
càng được xem trọng thì BLTTHS
đã đề cao nguyên tắc “không bỏ lọt
tội phạm”, đồng thời “không làm
oan người vô tội”. Đây là những
mục đích mang tính lý tưởng mà cơ
quan tiến hành tố tụng luôn hướng
đến, nếu chỉ thiên về nguyên tắc
này thì nguyên tắc kia dễ có khả
năng không đảm bảo.
Trong vụ án Trần Hùng, với phán
quyết của hai cấp sơ thẩm và phúc
thẩm (phạt ông Hùng chín năm tù
về tội nhận hối lộ), rõ ràng nguyên
tắc “không bỏ lọt tội phạm” đã
được thực thi. Tuy nhiên, liệu rằng
kết quả ấy có đảm bảo nguyên tắc
“không làm oan người vô tội” khi
mà chứng cứ buộc tội vẫn còn gây
nhiều tranh cãi?!
Ngoài ra, với việc không chấp
nhận các chứng cứ gỡ tội hay
không chứng minh để bác bỏ các
luận điểm bào chữa của LS, dư luận
cũng khó có thể cho rằng nguyên
tắc suy đoán vô tội đã được đề cao
trong vụ án này.
Bản án phúc thẩmcó hiệu lực pháp
luật ngay sau khi tòa tuyên án và
nó luôn được tôn trọng. Song trong
nhiều trường hợp, để đảm bảo công
lý, cơ quan tố tụng cấp trên vẫn tiến
hành thủ tục giám đốc thẩm để vụ
án được xem xét một cách khách
quan, toàn diện.•