6
Tiêu điểm
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Bảy22-6-2024
NGUYỄN QUÝ
T
ừ xưa đến nay, tham nhũng
luôn là vấn đề nhức nhối của
mỗi quốc gia. Người ta bắt tay
đi tìm nguyên nhân, nguồn gốc
của tham nhũng và tìm cách để trị
“căn bệnh” này. Có nhiều giải pháp
nhưng điểm chung là mỗi nước đều
xây dựng một hệ thống pháp luật
nghiêmminh để xử lý những người
có hành vi tham nhũng.
Và điều này không chỉ mới có ở
thời hiện đại, tư tưởng pháp trị đã
có từ xưa. Ở nước ta, điều này được
thể hiện rõ tại hai bộ cổ luật là Bộ
luật Hồng Đức dưới thời nhà Hậu
Lê và Bộ luật Gia Long dưới thời
nhà Nguyễn.
Nội dung này cũng được hai tác
giả TS - luật sư (LS) Phan Đăng
Thanh và LS Trương Thị Hòa nêu
cụ thể tại cuốn sách
Nhân quyền
của người Việt từ Bộ luật Hồng
Đức đến Bộ luật Gia Long.
Có quy định xử phạt
nghiêm khắc
Theo hai tác giả, “liêm chính” có
nghĩa là trong sạch và ngay thẳng
Cách người
xưa trị
tội phạm
tham nhũng
Từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia
Long đều có những quy định trị tội phạm
thamnhũng, để người dân được thụ
hưởngmột nền cai trị liêm chính.
Hai tác giả
TS - luật sư
PhanĐăng
Thanh và luật
sư Trương Thị
Hòa trong buổi
ramắt sách.
Ảnh: DI LINH
Đóng góp quan trọng vào giá trị nhân quyền cao quý của nhân loại
Các vụ án trên thực tế
Trên thực tế, trong hàng các vua
triều Nguyễn, Minh Mệnh là vị vua
nổi tiếng kiên quyết, nghiêmkhắc với
quan lại tham ô, nhũng lạm.
Theo
Đại Nam thực lục
, năm 1831,
viên tư vụ phủ Nội vụ là Nguyễn Đức
Tuyên ăn bớt nhựa thơm, gian dối bị
phát hiện, bị xử tử hình.
Năm 1823, viên thư lại phủ Nội vụ
là Lý Hữu Diệm lấy trộm hơn 1 lạng
vàng. Theo luật, tội này sẽ bị chém
nhưng xét thấy người này có nhiều
công trạng nên Bộ hình đề nghị giảm
xuống tội đồ. Vua Minh Mệnh không
chấpthuận,ralệnhphảiđemcanphạm
ra trước chợ Đông Ba chém đầu, cho
mọi người cùng thấy mà tự khuyên
răn nhau để sửa mình.
Đặcbiệt,mộtvụánnổitiếngtronglịch
sử, xảy ra vào năm Canh Thìn (1820),
vua MinhMệnh hạ án xử tử phó tổng
trấn thànhGiaĐịnh làHuỳnhCông Lý
(cha vợ vua Minh Mệnh) vì đã tham
nhũng số tiền lên đến 30.000 quan,
bị quân dân tố cáo.
“Liêm chính” có nghĩa
là trong sạch và ngay
thẳng. “Tham nhũng”
là lợi dụng quyền hành
để gây thiệt hại cho Nhà
nước và gây phiền hà,
khó khăn để lấy của dân.
- một phẩm chất cao quý của con
người, mà người có quyền cai
trị thường không giữ được trọn
vẹn. “Tham nhũng” là lợi dụng
quyền hành để gây thiệt hại cho
Nhà nước và gây phiền hà, khó
khăn để lấy của dân.
Bộ luật Hồng Đức của nhà Lê
Sơ có đến 40/722 điều (hơn 5%
tổng số điều luật) có nội dung
trực tiếp phục vụ cho việc bài trừ
nạn tham nhũng trong quan lại.
Hiện tượng tham nhũng vào
thế kỷ 15 ở nước ta chủ yếu tập
trung ở ba lĩnh vực: Đất đai (điền
sản), thuế má và hối lộ cho nên
hành vi tham nhũng dưới thời
Hậu Lê đã được Bộ luật Hồng
Đức quy định phòng, chống qua
hai đối tượng là tham ô, gian lận
nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà
nước và nhũng lạm để cưỡng đoạt
tài sản hối lộ của nhân dân.
Có thể kể đến một số quy định nổi
bật như Điều 226 Bộ luật Hồng
Đức quy định: “Những vị đại thần
và bách quan trong kinh thành,
nhà cửa, vườn tược chỉ được 3
mẫu trở lại (...). Nếu người nào
lạm chiếm quá phần ở đã định
thì bị tội xuy đánh 50 roi, biếm
một tư; người có vườn ao rồi lại
chiếm đất nơi khác thì tội thêm
một bậc. Nếu có công được vua
thêm đất thì không kể”.
“Xã quan không y kỳ hạn mà
nộp thuế, hay là cố ý giữ lại mà
biển thủ đi để đến nỗi thiếu thuế;
quan lộ phải xét thực tâu lên, kẻ
phạm tội phải khép vào tội đồ
hay lưu (…)” - Điều 176.
Để phòng, chống hành vi tham
nhũng, hối lộ, cưỡng đoạt tài sản
của nhân dân, Điều 138 quy định:
“Quan ty làm trái pháp luật mà
ăn hối lộ 1-9 quan thì xử tội biếm
hay bãi chức, 10-19 quan thì xử
tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên
thì xử tội chém…”...
“Qua Bộ luật Hồng Đức cho
thấy trong xã hội Đại Việt, từ việc
nhũng nhiễu nhỏ (tham nhũng
vặt) đến việc tham ô lớn, từ việc
xâm phạm quyền lợi của nhân
dân đến hành vi gây thiệt hại
cho công quỹ, tài sản nhà nước
đều có điều luật cụ thể quy định
xử phạt nghiêm khắc...” - tác giả
nhận định.
Mạnh tay bài trừ
tham nhũng, hối lộ
Kế thừa và phát triển Bộ luật
Hồng Đức, nhà Nguyễn khi xây
dựng Bộ luật Gia Long tỏ ra
càng nghiêm khắc hơn trong việc
phòng, chống, bài trừ tệ nạn tham
nhũng, hối lộ.
Bộ luật Gia Long có 79 điều
quy định về các tội liên quan đến
tham nhũng. Đặc biệt, bộ luật này
đã dành một chương riêng gồm
chín điều luật và sáu điều lệ để
quy định về tội nhận hối lộ.
Điều 312 Bộ luật Gia Long quy
định: Nhân việc nhận tiền của tất
phải có người trung gian để mối
lái việc đưa tiền, cho nên lại có
tội đưa tiền đến để lo việc (…)”
(như tội môi giới hối lộ ngày nay
- PV). Nhận tiền nhiều đến mức
phạm tội tử, mà tội đưa tiền đến
thì phạt 100 trượng (…).
Còn theo Điều 314, phàm quan
lại thừa hành việc gì mà trước đó
không đòi tiền, sau khi xong việc
lại nhận tiền thì nếu là trường hợp
xét xử sai, chuẩn luận tội uổng
pháp. Trường hợp không xét xử
sai, chuẩn theo bất uổng pháp mà
luận tội (…).
Không chỉ điều chỉnh với người
có chức vụ, quyền hạn, điểm tiến
bộ của Bộ luật Gia Long còn được
thể hiện thông qua quy định áp
dụng đến cả người nhà của họ.
Cụ thể, Điều 318 quy định
người nhà của các quan lại giám
lâm (bao gồm anh em, con cháu
cho đến nô bộc) trong vùng có
hành vi sách nhiễu, vay mượn của
nhân dân, mua bán đồ vật để lấy
lời nhiều điều bị xử nhẹ hơn tội
của bản quan hai mức (…). Nếu
Cuốn
Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức
đến Bộ luật Gia Long
lần đầu ra mắt công chúng vào
tháng8-2023được bạnđọc và nhữngnhà nghiên cứu sử
học, luật học đánh giá cao. Mới đây, cuốn sách đã được
NXB Tổng hợp TP.HCM tái bản có chỉnh sửa, bổ sung.
Xuyên suốt cuốn sách, hai tác giả đã làm bật lên giá
trị của hai bộ cổ luật là Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia
Long, mà trongđóquyền conngười là vấnđề trọng tâm.
“Bộ luật Hồng Đức: Bộ luật Việt Nam đầu tiên đề cao
nhânquyền”là tựa chương, cũng là lời khẳngđịnh về lịch
sử nhân quyền của người Việt được đúc kết thông qua
cuốn sách.
Để minh chứng cho điều này, tác giả dẫn chứng Bộ
luật Hồng Đức đã thể hiện 25 quyền của con người như
quyền dân tộc tự quyết, quyền thừa kế di sản, quyền
hôn nhân tự nguyện, quyền của phụ nữ…
“Trải quamấy ngàn năm lịch sử, từ khi loài người chưa
có khái niệm về “quyền con người” thì ở nước ta, trong
cuộc sống cổ xưa của tổ tiên người Việt đã từng bước
manh nha quyền con người rất sớm.
Sớmnhất là người Việt đấu tranh nêu cao“quyền dân
tộc tự quyết, chống phương Bắc xâm lược thôn tính
từ trước Công nguyên - một quyền con người mở đầu
Công ước về quyền dân sự và chính trị và Công ước về
quyền kinh tế - xã hội và văn hóa của loài người tiến bộ
vào năm 1966. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm
40) và bà Triệu (năm 248) thể hiện ý chí đấu tranh vì
độc lập, tự chủ, phát huy nữ quyền”, hai tác giả nhận
xét và khẳng định:“Tuy Việt Nam không phải là nơi sản
sinh ra thuật ngữ “nhân quyền” nhưng tổ tiên người
Việt thực tế từ lâu đã tiến gần những tiêu chuẩn nhân
quyền quốc tế ngày nay”.
Sang đến Bộ luật Gia Long (hơn ba thế kỷ sau), những
giá trị nhânquyền của Bộ luật HồngĐức không chỉ được
kế thừamà cònphát triểnmột sốquyềnnhưquyền thừa
kế, quyền kiện tụng… theo hướng tiến bộ hơn.
Các tác giả đã chứngminh hai bộ luật cổ củaViệt Nam
là Bộ luật Gia Long và Bộ luật Hồng Đức đều xứng đáng
là cộtmốc lịch sử, một đónggópquan trọng của dân tộc
Việt Nam vào giá trị nhân quyền cao quý của nhân loại.
Cuốn
Nhân
quyền
của người
Việt từ Bộ
luật Hồng
Đức đến
Bộ luật
Gia Long
vừa được
tái bản.
Ảnh: MINH
HOÀNG
quan lại sở tại biết rõ sự việc phải
chịu cùng tội, nếu không biết thì
không phải chịu tội…•