160-2019 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Tư17-7-2019
PHƯƠNG LOAN
T
AND TP.HCM vừa xử phúc
thẩm một vụ án ly hôn không
quá phức tạp nhưng đã kéo dài
đến bảy năm, khiến đương sự mệt
mỏi, người chồng rơi vào tình huống
cùng lúc có đến hai vợ hợp pháp...
Cấp phúc thẩmcho rằng cấp sơ thẩm
cần nghiêm túc rút kinh nghiệm đối
với những vi phạm không đáng có
trong quá trình tiến hành tố tụng.
Ly hôn xong, đã lập
gia đình mới
Năm 2012, ông L. nộp đơn ra
TAND quận 1, TP.HCM xin ly hôn
với bà C. Bà C. có yêu cầu phản tố
tranh chấp tài sản chung.
Ngày 1-3-2013, TAND quận 1
ghi nhận hai bên thuận tình ly hôn
và thỏa thuận: Bà C. trực tiếp nuôi
hai con chung, ông L. cấp dưỡng
500.000 đồng/tháng. Hai bên thống
nhất tài sản chung là căn nhà ở xã
X., huyện Củ Chi có giá là 200 triệu
đồng và đồng ý bán nhà, chia đôi giá
trị. Ông L. đang cư trú tại nhà nên
ưu tiên mua khi bán nhà.
Quyết định công nhận thuận tình
ly hôn và sự thỏa thuận của các
đương sự này có hiệu lực pháp luật
ngay sau khi ban hành và không bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.
10 ngày sau khi chính thức được
tự do, ông L. cưới vợ khác và sống
tại căn nhà ở Củ Chi nói trên cùng
gia đình mới.
Hàng loạt sai sót của TAND quận 1
HĐXX đã dành nhiều
thời gian phân tích, hòa
giải bởi “khi và chỉ khi
các đương sự thỏa thuận
được toàn bộ vụ án thì
bản án sơ thẩm ngày 27-
9-2018 của TAND quận
1 mới không bị hủy”.
Giải quyết ly hôn
khiến đương sự
vào thế có… 2 vợ
Một vụ án ly hôn được TANDTP.HCMđánh giá là đơn
giản nhưng phải trải qua gần bảy năm, trong đó TAND
quận 1 có nhiều sai sót trong quá trình thụ lý, giải quyết.
Ngày 8-1-2014, Ủy ban Thẩm
phán TAND TP.HCM họp giám
đốc thẩm đã hủy quyết định công
nhận thuận tình ly hôn… nói trên
của TAND quận 1. Quyết định giám
đốc thẩm nhận định quyết định của
TAND quận 1 vi phạm hàng loạt
thủ tục tố tụng như thiếu điều luật
áp dụng, thiếu phần nghĩa vụ chậm
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thời
hạn ban hành quyết định trễ một
ngày, thông báo sửa chữa, bổ sung
không đúng quy định…
Đương sự đâm ra có…
hai vợ hợp pháp
Sau đó, TAND quận 1 thụ lý lại
vụ án. Nhiều lần ông L. không đến
tòa vì ông đã có hạnh phúc mới hợp
pháp, ông không còn bận tâm đến
chuyện cũ nữa. Còn bà C. tiếp tục
phản tố về vấn đề tranh chấp tài sản
chung, cấp dưỡng nuôi con, đồng
thời yêu cầu ngăn chặn việc chuyển
dịch quyền về tài sản đối với căn
nhà đang tranh chấp.
Xác định bà C. là bị đơn có yêu
cầu phản tố nên trở thành nguyên
đơn, TAND quận 1 ra quyết định
chuyển hồ sơ cho TAND huyện Củ
Chi để giải quyết theo thẩm quyền.
Tuy nhiên, TAND huyện Củ Chi
xét thấy thẩm quyền chính xác là
của TAND quận 1 nên chuyển trả
lại hồ sơ.
Ngày 29-10-2015, TAND quận
1 thụ lý lại vụ án,
xác định bà C.
là nguyên đơn, ông L. là bị đơn
.
Được tòa triệu tập, ông L. nhiều
lần yêu cầu ngừng việc xét xử, xin
vắng mặt trong các phiên làm việc
và xét xử. Ông L. không đồng ý
“ly hôn” nữa, đồng thời yêu cầu
xem xét trách nhiệm trong việc hủy
quyết định về quan hệ hôn nhân vì
hiện tại ông đang tồn tại hai quan
hệ hôn nhân hợp pháp. Sau đó tại
phiên tòa, ông L. tiếp tục… rút lại
yêu cầu ly hôn.
Bản án sơ thẩm ngày 27-9-2018
của TAND quận 1
xác định nguyên
đơn là ông L., bị đơn là bàC
. HĐXX
tuyên xử chấp nhận yêu cầu xin ly
hôn, bà C. nuôi con, ông L. cấp
dưỡng mỗi trẻ 2 triệu đồng/tháng.
Bà C. được sở hữu căn nhà ở huyện
Củ Chi, phải thanh toán 100 triệu
đồng giá trị nhà và hỗ trợ thêm 100
triệu đồng cho ông L…
Ông L. kháng cáo về phần cấp
dưỡng nuôi con và tài sản chung.
Nỗ lực gỡ rối cho
người dân và tòa cấp dưới
Hồ sơ được chuyển lên TAND
TP.HCM. Quá trình thụ lý phúc
thẩm, tòa xét thấy hiện ông L. đang
tồn tại hai quan hệ hôn nhân hợp
pháp; tài sản chung chưa chia; ông
L. không cấp dưỡng nuôi con từ khi
quyết định công nhận thuận tình ly
hôn bị hủy… Điều này thật sự gây
khó khăn và làm mất ổn định cuộc
sống của các bên. Nếu bây giờ hủy
án tiếp thì chỉ làm vụ án tiếp tục kéo
dài, không có lợi cho các đương sự.
Trong khi bản chất của vấn đề cần
giải quyết dứt điểm là tình cảm hai
bên đã không còn, cần giải quyết
ly hôn và tài sản tranh chấp không
được định giá đúng giá trị thực tế
nên ông L., bà C. đều muốn giành
quyền nhận tài sản và hoàn tiền.
Lúc này, cấp phúc thẩmmuốn khắc
phục những sai sót của cấp sơ thẩm
nhưng các đương sự không hợp tác:
Bà C. không thống nhất chọn công
ty thẩm định giá, không đồng ý gặp
ông L., không đưa ra giải pháp hòa
giải, đề nghị giữ nguyên bản án sơ
thẩm. Vợ sau của ông L. không đến
tòa theo giấy triệu tập.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX
đã dành nhiều thời gian phân tích,
hòa giải, bởi theo đánh giá của các
thành viên HĐXX thì “khi và chỉ
khi các đương sự thỏa thuận được
toàn bộ vụ án thì bản án sơ thẩm
ngày 27-9-2018 của TAND quận 1
mới không bị hủy”. Bởi việc hủy
án sẽ đem lại phiền toái cho đương
sự, họ đã mất quá nhiều thời gian,
công sức...
Sau cùng, những nỗ lực hòa giải
đã thành công khi nguyên đơn, bị
đơn thống nhất thuận tình ly hôn
và thỏa thuận: Ông L. giao cho bà
C. số tiền chia tài sản chung và cấp
dưỡng nuôi con một lần là 600 triệu
đồng. Sau khi hoàn tất thủ tục giao
tiền, ông L. sẽ được sở hữu căn nhà
ở huyện Củ Chi.
Sự thỏa thuận của các đương sự
tại phiên tòa là tự nguyện; đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho người
vợ sauvà các con; không trái pháp luật
nên HĐXX công nhận thuận tình ly
hôn và sự thỏa thuận của các đương
sự. Đồng thời, tòa tuyên hủy những
văn bản ngăn chặn không đúng pháp
luật mà TAND quận 1 đã ban hành
trong quá trình giải quyết vụ án.•
Bản án phúc thẩm của TAND TP.HCM đã chỉ ra hàng loạt
sai sót của TAND quận 1.
Thứ nhất:
Đưa thiếu người tham
gia tố tụng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục trong quá trình
tiến hành tố tụng:
- Ban hành công văn ngăn chặn chuyển dịch tài sản nhưng
lại không xử lý văn bản này khi bị đơn đã rút yêu cầu.
- Vợ mới của ông L. hiện cư trú tại nhà đang tranh chấp và
cùng ông bỏ tiền sửa chữa nhà nhưng tòa không đưa bà và các
con vào thamgia tố tụng, rồi tòa quyết định giao căn nhà cho
bà C. là làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
- Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng quy định tại Điều 133 BLTTDS như ban hành văn bản
ngăn chặn mà không ra quyết định, không cho đóng tiền
bảo đảm…
- HĐXX dừng phiên tòa là vi phạmkhoản 2Điều 259 BLTTDS.
HĐXX trở lại phần xét hỏi, sau đó nghị án mà không thực
hiện việc tranh luận là vi phạm Điều 263 BLTTDS. Các lần
dừng phiên tòa, phiên tòa không mở, thay đổi thời gian mở
phiên tòa… đều không có biên bản thảo luận của HĐXX là
vi phạm nguyên tắc hội thẩm nhân dân ngang quyền theo
quy định tại điểm 4 Điều 49 BLTTDS.
- Đến ngày xét xử, thẩmphán lại ban hành quyết định xét xử
mới với thời gian mở phiên tòa cùng ngày ban hành với thành
phần HĐXX có sự thay đổi là vi phạm Điều 220 BLTTDS.
Thứ hai:
Vi phạm nghiêm trọng trong việc xác định tư
cách tham gia tố tụng, thay đổi địa vị tố tụng:
- Ông L. yêu cầu ngừng việc xét xử, không rút yêu cầu
khởi kiện nhưng cấp sơ thẩm lại thụ lý thay đổi tư cách tố
tụng. Nếu xác định bà C. là nguyên đơn thì tòa chỉ xem xét
yêu cầu phản tố của bà là tranh chấp cấp dưỡng, tranh chấp
chia tài sản chung vì bà không yêu cầu ly hôn. Sau khi dừng
phiên tòa, thẩm phán thông báo cho bà C. nộp tạm ứng án
phí tranh chấp ly hôn là vi phạm thủ tục thụ lý yêu cầu phản
tố theo khoản 3 Điều 200, Điều 202 BLTTDS.
- Thông báo thụ lý, quá trình tố tụng, quyết định đưa vụ
án ra xét xử xác định bà C. là nguyên đơn, ông L. là bị đơn
nhưng trong bản án thì hai ông bà lại đổi vai cho nhau.
Thứ ba:
Sai lầm về đường lối giải quyết vụ án:
- Tại phiên tòa, ông L. có ý kiến nếu bà C. và ông không
thỏa thuận được về tài sản, cấp dưỡng thì ông rút yêu cầu
khởi kiện, đề nghị đình chỉ vụ án. Trường hợp này lẽ ra phải
đình chỉ xét xử yêu cầu của nguyên đơn nhưng TAND quận
1 vẫn tuyên chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là
trái với khoản 2 Điều 244 BLTTDS.
- Hội đồng định giá tài sản chỉ định giá đất theo giá Nhà
nước. Như vậy, “có căn cứ rõ ràng cho thấy kết quả định giá
tài sản không phù hợp với gia thi trương…”. Trường hợp
này lẽ ra HĐXX phải cho định giá lại theo Điều 18 Thông tư
liên tịch 02/2014 của TAND Tối cao - VKSND Tối cao - Bộ Tư
pháp - Bộ Tài chính. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm đã lấy giá do
bà C. đưa ra tại phiên tòa để quyết định giao nhà cho bà C.
với lý do bà C. tự nguyện hoàn tiền cho ông L. cao hơn giá
của hội đồng định giá, có lợi cho ông L. là sự áp dụng chủ
quan, tùy tiện, không có căn cứ pháp luật.
LY
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,...20
Powered by FlippingBook