229-2019 - page 16

16
Quốc tế -
ThứBảy5-10-2019
Bẻ gãy hai luận điệu vô lý của
ông Cảnh Sảng về biển Đông
ĐỖTHIỆN
thực hiện
N
gười phát ngôn Bộ
Ngoại giaoTrungQuốc
(TQ) Cảnh Sảng mới
đây ngang ngược nói: “TQ
có chủ quyền tại Trường Sa
và quyền chủ quyền, quyền
tài phán tại khu vực bãi Tư
Chính ở kế đó. Điều này có
cơ sở vững chắc về lịch sử
và pháp lý”.
PGS-TSVũ Thanh Ca, ĐH
Tài nguyên - Môi trường Hà
Nội,nguyênVụtrưởngVụHợp
tác quốc tế và khoa học công
nghệ - Tổng cục Biển và Hải
đảoViệtNam(VN), nhậnđịnh:
“Giống như trước đây, lập luận
lần này của ông Cảnh Sảng rất
mơ hồ và hoàn toàn không có
cơ sở, cả về khía cạnh lịch sử
lẫn góc độ pháp lý”.
Pháp lý: Lập trường
TQ rất ngớ ngẩn
.
Phóng viên
:
Về mặt pháp
lý, việc TQ nói có quyền chủ
quyền, quyền tài phán tại khu
vực bãi Tư Chính vô lý như
thế nào?
+ PGS-TS
Vũ Thanh Ca
:
Theo quy
địnhcủaluật
pháp quốc
tế, đặc biệt
làCôngước
Liên Hiệp
Quốc về
Luật Biển
(UNCLOS)
năm1982,một vùngbãi ngầm,
thậm chí là bãi cạn lúc chìm
lúc nổi (tức là nổi lên khi triều
thấp và chìm xuống khi triều
cao), không phải là đối tượng
để tuyên bố chủ quyền. Như
vậy, chế độ pháp lý của bãi
ngầmTư Chính cũng như các
bãi ngầmvà bãi cạn lúc nổi lúc
chìm trên biển chỉ phụ thuộc
vào khoảng cách tới bờ biển
(hoặc bờ đảo) của các quốc
gia lân cận.
Nếu khu vực bãi ngầmnằm
trong khoảng cách 200 hải
lý tới bờ biển của quốc gia
gần nhất, nó sẽ thuộc vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ) của
quốc gia đó. Nếu nó nằm
trong khoảng cách 350 hải
lý tới bờ biển của quốc gia
gần nhất và địa hình đáy biển
thoải dần ra bên ngoài, nó sẽ
thuộc vùng thềm lục địa của
quốc gia đó. Nếu bãi ngầm
nằm trong khoảng cách nêu
trên của cùng lúc hai quốc
gia, nó sẽ thuộc vùng biển
chồng lấn của hai quốc gia
này và cần được đàm phán
để phân định ranh giới biển.
Nếu bãi ngầm nằm cách bờ
biển củamột quốc gia với một
khoảng cách trên 350 hải lý
hoặc một khoảng cách nhỏ
hơn 350 hải lý và lớn hơn
200 hải lý nhưng bãi ngầm
bị ngăn cách với bờ bằng ít
nhất một rãnh sâu với đáy
biển đột nhiên sụt xuống thì
bãi này sẽ không liên quan
gì tới quốc gia này.
Bãi ngầm Tư Chính nằm
cách bờ biển Vũng Tàu của
VN khoảng 160 hải lý trong
khi cách bờ đảo Hải Nam của
TQ trên 600 hải lý. Như vậy,
theo quy định của luật pháp
quốc tế, bãi này hoàn toàn
thuộc EEZ và thềm lục địa
VN, không liên quan tới TQ.
. Vì sao gần đây TQ lại
gắn Tư Chính với quần đảo
Trường Sa trong khi trước
đây TQ thường không lập
luận như vậy?
+ Trước đây, lý luận của
TQ khi tranh chấp với VN
tại khu vực bãi Tư Chính là
khu vực này nằm trong phạm
vi đường chín đoạn hoặc là
một phần của cái gọi là “vùng
nước quần đảo Trường Sa”
mà TQ đang tuyên bố chủ
quyền trái phép. Các học giả
TQ khi nói về đường chín
đoạn cũng lý luận rất mù mờ
về “quyền lịch sử” và không
một ai trên thế giới hiểu rằng
theo cách diễn giải của TQ,
cơ chế pháp lý của vùng biển
bên trong “đường lưỡi bò” là
gì, nó là nội thủy, lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế hay
thềm lục địa?
Phán quyết của Tòa Trọng
tài thường trực năm 2016 đã
nêu rõ hai điểm: (1) Không
có cơ sở pháp lý để TQ yêu
sách quyền lịch sử đối với
tài nguyên tại các vùng biển
phía bên trong đường chín
đoạn và (2) Không một cấu
trúc nào tại Trường Sa có khả
năng tạo ra các vùng biển mở
rộng và các đảo Trường Sa
không thể cùng nhau tạo ra
các vùng biển như một thực
thể thống nhất.
Có thể thấy rằng TQ đã
nhận ra rằng yêu sách đường
chín đoạn quá ngớ ngẩn và
không thể lừa ai. Vì vậy, lần
này Cảnh Sảng đã gắn bãi Tư
Chính với quần đảoTrườngSa
(của Việt Nam). Lập luận này
cũng hoàn toàn đi ngược lại
quy định của luật pháp quốc
tế. Chú ý rằng phán quyết của
Tòa Trọng tài thường trực là
một phần của luật pháp quốc
tế. Như vậy, theo luật pháp
quốc tế, đường chín đoạn là
phi pháp và không tồn tại cái
gọi là “vùng nước quần đảo
Trường Sa” như cách nói của
TQ nên bãi Tư Chính thuần
túy thuộc VN. Ngược lại, TQ
không có bất cứ cơ sở pháp lý
nào để biện minh rằng vùng
Giống như trước
đây, lập luận lần
này của ông Cảnh
Sảng rất mơ hồ và
hoàn toàn không
có cơ sở, cả về khía
cạnh lịch sử lẫn góc
độ pháp lý.
Có thể thấy Trung Quốc đã nhận ra rằng yêu sách đường chín đoạn quá ngớ ngẩn và không thể lừa ai.
Lập trường lịch sử và pháp lý của
Việt Nam
. So sánhvới phát ngôncủaCảnhSảng, lập trườngvề vấn
đề lịch sử vàpháp lý củaVNđối với biểnĐôngnhư thế nào?
+ Các bằng chứng lịch sử từ cuối thế kỷ 16 tới nay đã
khẳng định rằngNhà nướcVNvà sau đó là nhà nước thực
dân Pháp thay mặt quốc gia bị đô hộ VN đã xác lập chủ
quyền, quản lý một cách lâu dài, hòa bình và liên tục hai
quần đảoHoàng Sa vàTrường Sa.Tuy nhiên,VN sẵn sàng
cùng các quốc gia liên quan có tranh chấp chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa vàTrường Sa đàmphán, giải
quyết các tranh chấp này một cách hòa bình, trên cơ sở
luật pháp quốc tế.
Quan điểm của VN là không để tình hình tranh chấp
chủ quyền trên hai quần đảoHoàng Sa vàTrường Sa ảnh
hưởng tới quan hệ giữa VN và các nước liên quan, ảnh
hưởng tới hòabình, ổnđịnh, tựdo, an toànhànghải, hàng
không và phát triển bền vững biểnĐông.Tuy vậy,VN sẵn
sàng chống trả những quốc gia nào bất chấp luật pháp
quốc tế, vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền
tài phán quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ VN.
biển bãi Tư Chính là vùng
tranh chấp hay vùng nước
thuộc quyền chủ quyền và
quyền tài phán của họ.
Lịch sử: TQ ngụy tạo
chứng cứ
. Luật quốc tế vốn cũng bác
cái mà TQ gọi là quyền lịch
sử. Dù vậy, nếu xét đơn thuần
ở khía cạnh lịch sử thì lý lẽ
của TQ như thế nào?
+ Nhà báo, học giả người
Anh Bill Hayton gần đây đã
viết rất nhiều về những sai
lầm và ngụy tạo của TQ cho
cái mà TQ gọi là “chủ quyền
lịch sử trên biển Đông”.
Theo các nghiên cứu của Bill
Hayton, trước đây TQ không
có phương tiện, thiết bị nào
để khảo sát và biết được các
bãi ngầm ở biển Đông. Do
vậy, TQ đã dịch và đặt tên
cho các thực thể địa lý trên
biển Đông bằng cách dịch các
bản đồ nước ngoài và gán tên
TQ cho nó.
Tên tiếng Anh của bãi Tư
Chính làVanguard Bank. Khi
TQ dịch nó ra tiếng Hoa, họ
không biết bãi này ở đâu và
ra sao, cứ nghĩ đây là một
bãi cát nổi (Bank) nên gọi
nó là bãi Vạn An. Cái nhầm
lẫn ngớ ngẩn này đã làm cho
TQ tưởng rằng họ đã có “chủ
quyền lịch sử” đối với bãi Tư
Chính từ ngàn xưa.
Về mặt lịch sử, TQ xưa kia
là quốc gia hướng về nội địa.
Từ khi VN xác lập chủ quyền
trên hai quần đảoHoàng Sa và
Trường Sa vào thế kỷ 16 cho
tới đầu thế kỷ 20, TQ không
có bất cứ động thái nào để
khẳng định chủ quyền trên
hai quần đảo này. Phán quyết
của tòa năm 2016 cũng nêu
rõ có thể trong lịch sử, một
số quốc gia có thực hiện đánh
cá và một số hoạt động kinh
tế khác trên một vùng biển.
Tuy nhiên, cái gọi là “quyền
lịch sử” của quốc gia đó từ
khi UNCLOS ra đời chỉ được
giới hạn trong vùng biển mà
quốc gia đó được phân định
theo UNCLOS. Như vậy, về
mặt lịch sử, TQ cũng không
có bất cứ cơ sở nào để nói TQ
có chủ quyền trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
. Xin cám ơn ông.•
Phát ngôn của ông Cảnh Sảngmơ hồ và vô lý. Ảnh: T.TRANG
Tàu TrungQuốc thường tiến hành hù dọa để làmcác nước lo sợ và tự từ bỏ biểnĐông. Ảnh: GETTY
Họ đã nói
Trung Quốc muốn bắt
nạt để trục lợi COC
Hiện nay, TQ đang cùng các
nướcASEANthảoluậnđểthống
nhấtkýkếtBộquytắcứngxửcác
bênởbiểnĐông(COC).Trongdự
thảo của TQ, nước này đề xuất
là các nước trong khu vực biển
Đôngkhôngđượcphéphợptác
với các nước ngoài khu vực để
khai thác tài nguyênbiểnĐông.
Biết rằng quy định này trái với
luật pháp quốc tế nênTQ tăng
cường sức ép trên thực địa để
các quốc gia ASEAN thấy rằng
nếu không thuận theo TQ thì
không thể khai thác được tài
nguyêntrênbiểnĐông.Nhưvậy,
TQmưu đồ dùng sức mạnh để
bắt nạt các nước trong khu vực
nhằm dễ bề thao túng, chiếm
đoạt tài nguyên của các nước
xung quanh biển Đông trong
tương lai.
PGS-TS
VŨ THANH CA
1...,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15 16
Powered by FlippingBook