066-2020 - page 11

11
Kinh tế -
ThứSáu27-3-2020
Việt Nam không thiếu gạo như
nhiều người lo ngại
T
rong lúc nhiều mặt hàng
nông sản xuất khẩu sụt
giảmmạnh vì ảnh hưởng
của dịch COVID-19 thì gạo
lại là ngành hàng có sự tăng
tốc đầy bất ngờ. Hai tháng
đầu năm2020, lượng gạo xuất
khẩu đạt hơn 929.000 tấn, thu
về hơn 430 triệu USD. Con
số này tăng 30,5% về lượng
và tăng 38% về kim ngạch
so với cùng kỳ năm ngoái.
Được mùa, được giá
Ông Nguyễn Thanh Long,
Giám đốc Công ty Gạo Việt,
cho biết: Nhờ có chỉ đạo sát
sao từ Bộ NN&PTNT, chính
quyền các địa phương gieo sạ
sớmvụ đông xuân 2019-2020
nên tránh được ảnh hưởng
của đợt xâm nhập mặn, nông
dân thu hoạch sớm và được
mùa. Bên cạnh đó, nhiều địa
phương tại ĐBSCL không bị
ảnh hưởng nhiều bởi hạnmặn
như An Giang, Đồng Tháp,
Long An… giúp người dân
trúng mùa, được giá.
Đáng chú ý, giá xuất khẩu
gạo những tháng đầu nămnay
tăng khá mạnh. Hiện giá gạo
xuất khẩu Việt Nam đã tăng
cao nhất tại khu vực châu Á,
chỉ sau Thái Lan. Giá xuất
khẩu cao kéo giá lúa gạo
trong nước tăng theo, nông
dân được lợi vì bán được
giá cao.
“Giá gạo nguyên liệu mua
vào trước đây khoảng 7.000
đồng/kg thì giờ đây đã tăng
lên mức 9.000 đồng/kg. Giá
gạo xuất khẩu loại gạo trắng
5% tấm trước đây chỉ 360-370
USD/tấn, hiện nay đã leo lên
mức 410 USD/tấn” - ông
Long chia sẻ.
Đặc biệt, nếu năm 2019
hầu như doanh nghiệp (DN)
không xuất được hạt gạo nào
sang Trung Quốc thì đầu năm
nay, theo ông Phạm Thái
Bình, Tổng giám đốc Công
ty cổ phần Nông nghiệp công
nghệ cao Trung An, nhu cầu
thế giới về gạo từ đầu năm
2020 đến nay tăng đột biến.
Chính vì vậy, công ty của
ông đã xuất khẩu nhiều đơn
hàng với lượng lớn. Không
chỉ vậy, giá xuất khẩu tăng
15%-20% so với trước đây.
“Xuất khẩu gạo nếp sang
Trung Quốc cũng tăng, giá
nhảy lên mức 580-590 USD/
tấn, trong khi trước đây chỉ
khoảng520-530USD/tấn.Nhu
cầu tấm sắp tới tại thị trường
TrungQuốc dự báo cũng tăng.
Ngoài ra, xuất khẩu gạo sang
các thị trường như Malaysia,
Philippines, Nhật Bản, châu
Âu… cũng khả quan” - ông
Bình thông tin.
Phó Chủ tịch Hiệp hội
Lương thực Việt Nam (VFA)
NguyễnTrungKiên nhìn nhận
trong năm 2020, xuất khẩu
gạo sẽ tăng do nhu cầu thế
giới tăng lên. Nhu cầu nhập
khẩu gạo các thị trường tăng
là do hạn hán, dịch bệnh ở
Ấn Độ, Thái Lan nên một
số nước tranh thủ mua vì lo
ngại thiếu nguồn cung. Giá
xuất khẩu gạo vì thế cũng lên
mức cao hơn, trong khi nhu
cầu nội địa cũng nhiều hơn
so với trước.
“Bêncạnhđó, việcgạoST25
đoạt giải Gạo ngon nhất thế
giới cũng là một trong những
yếu tố giúp đẩy giá gạo Việt
tăng. Giá gạo hiện tại là mức
cao nhất trong hơn một năm
qua” - đại diệnVFAđánh giá.
Không lo thiếu
nguồn cung gạo
Trước thông tin lo ngại
nguồn cung gạo sẽ thiếu do
ảnh hưởng của tình trạng hạn
mặn tại vựa lúa cả nước là
ĐBSCL và xuất khẩu tăng,
nhiềuDNvà chuyên gia khẳng
định nguồn cung rất dồi dào.
Ông PhạmThái Bình, Tổng
giám đốc Công ty cổ phần
Nông nghiệp công nghệ cao
TrungAn, khẳngđịnh: “Nguồn
cung trong nước không lo
thiếu, vì mỗi năm Việt Nam
dư đến 6-7 triệu tấn gạo để
xuất khẩu. Riêng năm nay
Việt Nam dự kiến xuất khẩu
6,5-6,7 triệu tấn gạo. Hơn
nữa, vụ thu hoạch chính của
ngành lúa gạo Việt Nam là
vụ đông xuân vừa qua trúng
mùa lớn”.
Đồng quan điểm, Phó Chủ
tịchVFANguyễn Trung Kiên
phân tích: Dù xuất khẩu hai
tháng đầu nămnay tăng nhưng
thực sự chỉ tăng so với thời
điểm cùng kỳ năm 2019. Ông
Kiên dẫn chứng thị trường
TrungQuốc những năm2016,
2017, 2018…mỗi tháng nước
này nhập tới 100.000 tấn gạo
của Việt Nam. Nhưng hai
tháng đầu năm 2020 mới
nhập chỉ hơn 60.000 tấn, tính
ra không nhiều.
“Tính tổng thể hai tháng đầu
năm 2020, nếu so với cùng
kỳ năm 2019 (năm xuất khẩu
giảm mạnh nhất) thì thấy có
vẻ tăng, song so với các năm
trước đây thì có khi không
bằng hoặc giảm. Vì vậy, sản
lượng gạo xuất khẩu đầu năm
tính ra vẫn chưa nhiều, nguồn
cung trong nước vẫn dồi dào”
- ông Kiên khẳng định.
Cùng nhìn nhận trên, ông
Lê Thanh Tùng, Phó Cục
trưởng Cục Trồng trọt thuộc
Bộ NN&PTNT, thông tin: Từ
tháng 9 đến tháng 10-2019,
ngành chức năng đã dự báo
hạn mặn trong vụ đông xuân
sẽ trở nên gay gắt, thậm chí
còn vượt khốc liệt hơn đợt
hạn mặn năm 2015-2016.
Chính vì vậy, ngành nông
nghiệp đã chủ động yêu cầu
các địa phương xuống giống
sớm và cắt bỏ xuống giống
những diện tích trồng lúa có
nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm
trọng bởi hạn mặn.
Nhờ giải pháp trên, vụ lúa
đông xuân năm nay có thay
đổi lớn. Đó là sản lượng lúa
cho xuất khẩu và tiêu dùng
trong nước được cung ứng
sớmhơn trung bình hằng năm
từ 20 ngày đến một tháng.
“Sản lượng cung ứng kịp
thời, gặp đúng lúc thị trường
cầnnênxuất khẩu lúa gạongay
từ những tháng đầu năm đã
sôi động. Từ đó kéo giá lúa
đông xuân tại thị trường trong
nước cũng tăng, dù không ít
mặt hàng khác bị ảnh hưởng
bởi dịch COVID-19” - ông
Tùng nhấn mạnh.•
Theo Bộ NN&PTNT, vụ lúa đông xuân trúngmùa, trúng giá và đảmbảo đủ sản lượng cho xuất khẩu lẫn
tiêu dùng trong nước.
Nhờ các địa phươngĐBSCL chủ động xuống giống sớmđể ứng phó với hạnmặn
nên có nguồn cung gạo lớn. Ảnh: GIA TUỆ
“Việt Nam hiện có
nguồn cung gạo rất
dồi dào. Đó là chưa
kể hai vụ trước Việt
Nam đều trúng
mùa, sản lượng tăng
mạnh, đảm bảo đủ
sản lượng cho xuất
khẩu và tiêu dùng
trong nước.”
GS
Võ Tòng Xuân
Tiêu điểm
Hạn mặn chỉ ảnh hưởng rất ít đến
vụ lúa đông xuân
Ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt thuộc
Bộ NN&PTNT, phân tích: Tình hình hạn mặn đã ảnh hưởng rất
lớn đến sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. Tổng diện tích lúa bị ảnh
hưởng bởi hạn mặn khoảng 23.000 ha, trong đó diện tích lúa bị
thiệt hại 30%-70% là 17.000 ha. Tuy nhiên, nếu so với cùng kỳ
đợt hạn mặn kỷ lục năm 2015-2016 thì diện tích này chỉ bằng
khoảng 10% (thời điểm đó, diện tích lúa bị thiệt hại là 150.000
ha). Còn so với tổng diện tích lúa vụ đông xuân hiện tại của vùng
ĐBSCL thì chỉ chiếm 1%.
“Chính vì vậy, sản lượng lúa vụ đông xuân năm nay vẫn đạt
khoảng 10 triệu tấn, tương đương các vụ trước. Như vậy sẽ có
khoảng 3 triệu tấn gạo hàng hóa phục vụ xuất khẩu. Nguồn
cung gạo sau khi xuất khẩu vẫn đảmbảo nhu cầu tiêu thụ trong
nước” - ông Tùng khẳng định.
Cần tiếp tục xuất khẩu có kiểm soát
sản lượng
GS Võ Tòng Xuân, chuyên gia nông nghiệp, nói xét về an
ninh lương thực, Việt Namkhông có gì phải lo vì vụ đông xuân
trúng mùa, được giá. Sau đó lại tiếp tục thu hoạch vụ hè thu
và có thêm một lượng gạo mới cung ứng ra thị trường.
Hơn nữa, chỉ có ba tháng là cómột vụ lúa mới. Đặc biệt, chỉ
cần một vụ lúa đã dư sức nuôi cả nước. Hơn nữa, giống lúa
sản xuất ở ĐBSCL là ngắn ngày, có những giống chỉ 85 ngày
thôi đã thu hoạch.
Như vậy, nếu không cho xuất khẩu thì cả DN lẫn nông dân
thiệt hại. Vì lâu lắm rồi giá gạo mới lên cao, nếu ngưng xuất
khẩu thì tức tốc giá lúa sẽ xuống ngay. Bằng chứng là sau khi
có thông báo tạm ngưng xuất khẩu thì giá lúa đã rớt xuống.
“Vìvậy,tôichorằngcầntiếptụcchoxuấtkhẩugạobìnhthường
nhưng có kiểm soát về sản lượng xuất khẩu”- GS Xuân nói.
GS Xuân cũng cho rằng nên cho xuất khẩu gạo nếu không
muốn lặp lại tình cảnh năm 2008. Năm 2008 đang xuất khẩu
ngon lành, Việt Nam cũng đang nhiều gạo, các nước lại thiếu
gạo, chấp nhận mua giá cao. Thế nhưng lúc đó cũng lo thiếu
gạomà ra thông báo tạmngưng xuất khẩu trong khi lại thiếu
đánh giá, kiểmtra về sản lượng gạo. Cuối cùngThái Lan hưởng
lợi, bán giá cao, còn nông dân nước ta bán gạo giá thấp.
Muốn nắm số liệu về gạo rất dễ
Về ý kiến cho rằng có độ vênh số liệu liên quan đến gạo là
do từ khi có Nghị định 107/2018 về kinh doanh xuất khẩu gạo
thì không còn số liệu, đại diện một DN không muốn nêu tên
nói: Hiện nay muốn có số liệu thống kê về lúa gạo rất dễ. Đó
là từ nhiều cơ quan như Bộ NN&PTN, Tổng cục Hải quan, Tổng
cục Thống kê. Đó là chưa kể từ các sở, ngành các địa phương,
DN, hiệp hội...
“Như vậy, nói việc khó nắm được thông tin về lúa gạo là
không đúng. Vấn đề nằm ở chỗ các cơ quan chức năng có
thường xuyên trao đổi, liên thông với nhau hay không thôi”
- vị đại diện DN trên nói.
Đóng
gói xuất
khẩu
gạo tại
một
doanh
nghiệp.
Ảnh:
QUANG
HUY
QUANGHUY
1...,2,3,4,5,6,7,8,9,10 12,13,14,15,16
Powered by FlippingBook