100-2020 - page 4

4
Thời sự -
ThứSáu 8-5-2020
Học giả Mỹ lên tiếng về Công hàm
Phạm Văn Đồng
Các học giả đều cho rằng Trung Quốc suy diễn nội dung Công hàmPhạmVănĐồng không theo tinh thần
luật pháp quốc tế.
ĐỖTHIỆN
L
iên quan đến việc Trung Quốc
(TQ) gửi công hàm lên tổng thư
ký Liên Hợp Quốc có viện dẫn
Công hàm Phạm Văn Đồng năm
1958 (CHPVĐ), GS Ngô Vĩnh
Long, chuyên gia quan hệ quốc
tế tại ĐH Maine (Mỹ), nhận định:
“Rõ ràng TQ đã xuyên tạc trắng
trợn nội dung CHPVĐ”.
Tương tự, Đại tá Raul Pedrozo,
cựu cố vấn pháp lý thuộc Bộ tư
lệnh Thái Bình Dương, Hải quân
Mỹ, cũng nhận định TQ không đủ
cơ sở để nói Việt Nam (VN) thừa
nhận chủ quyền củaBắcKinh đối với
hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa.
Ý đồ xấu của Trung Quốc
Theo GS Ngô Vĩnh Long, bằng
việc viện dẫn CHPVĐ, TQ có ý đồ
bào chữa cho việc xâmchiếmHoàng
Sa và Trường Sa bằng vũ lực, cũng
như việc đã và đang tiếp tục đe dọa
và bành trướng trong Biển Đông.
Thêm vào đó, có thể TQmuốn dùng
thuyết “estoppel by acquiescence,”
tức là nếu VN im lặng hay không
phản đối thì có nghĩa VN đồng ý
với những đòi hỏi của TQ.
“Tuy nhiên, VN đã liên tục phản
đối những đòi hỏi của TQ và phản
kháng các hành động trái phép của
TQ ở Biển Đông. Một trong những
văn bản bác bỏ một cách chi tiết
những luận điệu của TQ là Cong
hamsô 22/HC-2020 ngay 30-3-2020
được VN gửi đến tông thu ky Liên
Hợp Quốc” - ông Long nói.
Lý giải về nội dung CHPVĐ, GS
Ngô Vĩnh Long cho rằng công hàm
này không hề đề cập đến Hoàng Sa
và Trường Sa, cũng không nói gì
đến việc thừa nhận chủ quyền của
TQ trên hai quần đảo này. Cụ thể,
CHPVĐ viết rất rõVN “ghi nhận và
tán thành” quyết định về hải phận
12 hải lý mà TQ tuyên bố trước
đó (tháng 9-1958). Từ “hải phận”
trong bối cảnh này phải được hiểu
là “lãnh hải”, chứ không phải các
vùng biển bao gồm cả Trường Sa,
Hoàng Sa như một số người nghĩ.
Cũng theoôngLong,CHPVĐcũng
không phải là một hiệp ước quốc tế
mà đơn thuần chỉ là tuyên bố đơn
phương. Tuyên bố này không có giá
trị pháp lý khi xét trên phương diện
quốc tế. Dựa vào các án lệ quốc tế
và theo Hiến pháp năm 1946 của
VN (vẫn còn hiệu lực vào năm
1958) thì một hiệp ước phải được
sự chấp thuận của nhiều lãnh đạo
gồm chủ tịch nước, phó chủ tịch
và nội các (Điều 44). Ngoài ra,
những hiệp ước liên quan đến các
vấn đề quan trọng chủ quyền lãnh
thổ thì phải được Quốc hội, cơ quan
quyền lực cao nhất, phê chuẩn thì
mới có hiệu lực (Điều 22 và 23).
Hiến pháp của VN Dân chủ Cộng
hòa (DCCH) không cho phép thủ
tướng đơn phương tuyên bố việc
quyết định chủ quyền.
“Xét bối cảnh lịch sử cùng với
quy định pháp luật VN giai đoạn
1958, chúng ta có thể thấy Thủ
tướng PhạmVăn Đồng không có ý
định và cũng không thể phát ngôn
thừa nhận Trường Sa, Hoàng Sa là
của TQ như luận điệu mà phía Bắc
Kinh nói lâu nay” - GS Ngô Vĩnh
Long kết luận.
Trung Quốc không có cơ sở
nói Việt Namtừbỏ chủquyền
Cùng quan điểmvới GSNgôVĩnh
Long, Đại tá Raul Pedrozo cũng cho
rằng CHPVĐ chỉ đơn giản là bày tỏ
sự ủng hộ của VN với chủ trương
mở rộng vùng lãnh hải (từ ba hải
lý) ra 12 hải lý trong tuyên bố của
TQ năm 1958. CHPVĐ không hề
công nhận chủ quyền củaTQđối với
hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa.
“VNCộng hòa mới chính là quốc
gia kiểm soát hợp pháp hai quần đảo
nói trên giai đoạn 1958. Hiệp định
Genève năm 1954 đã chia lãnh thổ
VN thành hai phần với ranh giới là
vĩ tuyến số 17 và dự kiến thống nhất
thông qua bầu cử vào 20-7-1956. Cả
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa vì thế đều chịu quyền quản lý
của chính quyềnmiền Nam, chính là
VN Cộng hòa” - ông Raul Pedrozo
phân tích.
Dựa trên các bằng chứng lịch sử
và pháp lý, Đại tá Raul Pedrozo kết
luận: “VNDCCH thực tế không có
chủ quyền và cũng không thể thực
thi chủ quyền đối với hai quần đảo
nói trên. Thế nên VNDCCH không
thể có tư cách pháp lý để tuyên bố
từ bỏ chủ quyền lãnh thổ hay công
nhận chủ quyền của TQ ở các quần
đảo vào thời điểmThủ tướng Phạm
Văn Đồng gửi công hàm năm 1958.
Nói cách khác, VNDCCH không
có quyền gì để từ bỏ hay chuyển
nhượng sang cho TQ cả”.
Cần nói thêm, tháng 8-2014, Đại
tá Raul Pedrozo đã công bố một báo
cáo với nhan đề
“TQ và VN: Phân
tích các yêu sách chủ quyền đối lập
tại Biển Đông”
trên Trung tâmPhân
tích Hải quânMỹ (CNA). Trong đó,
ông Raul Pedrozo nhận định nhìn từ
các thực tế lịch sử và pháp lý, các
quốc gia khác có yêu sách ở Biển
Đông (bao gồm TQ) không có cơ
sở để cho rằng VN đã không thực
thi quyền kiểm soát hữu hiệu đối
với các đảo ở Biển Đông. Họ cũng
không có bằng chứng để nói VN đã
từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với
Trường Sa, Hoàng Sa.
Mặt khác, Đại tá Raul Pedrozo
cũng khẳng định VN có yêu sách
chủ quyền thuyết phục tại Hoàng
Sa và Trường Sa thông qua các
chứng cứ về mặt lịch sử lẫn pháp lý.
Trái lại, sau khi VN đã xác lập chủ
quyền hợp pháp và hữu hiệu hàng
thế kỷ, TQ mới bắt đầu thể hiện ý
định chiếm hữu hai quần đảo trên.
Việc TQ dùng vũ lực chiếm đảo
Phú Lâm và đảo Ba Bình (năm
1956), toàn bộ Hoàng Sa (năm
1974) và một số thực thể khác tại
Trường Sa (năm 1988) đã vi phạm
khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên
Hợp Quốc. Chính vì thế, theo ông
Raul Pedrozo, TQ không thể tạo ra
“danh nghĩa rõ ràng” ở cả hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việt Nam không vi phạm
nguyên tắc Estoppel
Cũng liên quan đến CHPVĐ, phía
TQcáo buộcVNvi phạmnguyên tắc
Estoppel. Theo GS Ngô Vĩnh Long,
hiểu nôm na Estoppel là sự “giao
kèo,” tức là giao ước hay hợp đồng
giữa hai bên hay nhiều bên với nhau.
MụcđíchcủaEstoppellàđểngănngừa
việc các quốc gia có thái độ trước sau
bất nhất để trục lợi, gây thiệt hại cho
nước khác. Một trong những quy tắc
Estoppel được dùng nhiều ở một số
quốc gia là “promissory estoppel”
(giao kèo bằng lời hứa).
Quan điểm của phía Bắc Kinh là
CHPVĐ “đã hứa” công nhận chủ
quyền của TQ đối với Trường Sa,
Hoàng Sa nhưng hiện tại VN nói
mình có chủ quyền đối với hai quần
đảo này tức là VN đã “không giữ
lời hứa”. Song lập trường của phía
Bắc Kinh không có cơ sở pháp lý.
Theo GS Ngô Vĩnh Long, Tòa án
Công lý quốc tế (ICJ) trong phán
quyết việc Úc và New Zealand kiện
Pháp vụ thử hạt nhân nói rõ: Khi
các quốc gia đưa ra lời tuyên bố
hạn chế tự do hành động của mình
thì phải giải thích cụ thể. Ngoài ra,
khi xem xét nội dung của tuyên bố
đơn phương thì phải “xem lời văn
trong lời tuyên bố có biểu lộ một ý
định rõ rệt không”.
“Đối với CHPVĐ, như đã phân
Hiệp định
Genèveđãtrao
quyền quản
lý hành chính
Hoàng Sa và
TrườngSa, đều
ở phía nam vĩ
tuyến 17, cho
VN Cộng hòa.
ChínhquyềnvàHải quânVNCộnghòa
đãmạnhmẽ xác nhận chủquyềnởđó
trước cộng đồng quốc tế. Thậm chí,
phíaVNCộnghòađã chiếnđấu chống
lại việc xâmchiếmbằng vũ lực củaTQ
tại Hoàng Sa năm1974. Việc VN Cộng
hòa có được các nước lên tiếng thừa
nhận là một quốc gia hay không thì
cũngkhôngảnhhưởngđếnsựthậtnày.
Về mặt luật pháp quốc tế, theo
Công ước Montevideo (năm 1933),
cảVNDCCHvàVNCộng hòa giai đoạn
1958 đều là hai pháp nhân theo kiểu
quốc gia độc lập. Bởi lẽ cả hai đều có
dân sinh sống, vùng lãnh thổ được
xác định, có chính quyền và có khả
năng thiết lập quan hệ với các nước
khác.Vậynên, tuyênbốvà thực thi chủ
quyền của VN Cộng hòa với Trường
Sa, Hoàng Sa là hữu hiệu.
GS
NGÔVĨNH LONG
,
chuyên gia
quan hệ quốc tế ĐH Maine (Mỹ)
VN đã bắt
đầu việc thực
thi kiểm soát
chủ quyền đối
với các đảo ở
Biển Đông từ
những năm
1950, khi nước
Pháp bắt đầu
rút quân khỏi Đông Dương theo lộ
trình. Ngày 14-10-1950, Pháp chính
thức chuyểngiaoquyềnbảovệHoàng
Sa choquânđộiVN. Một nămsau,Thủ
tướng Trần Văn Hữu tại Hội nghị Hòa
bình San Francisco tái khẳngđịnh chủ
quyền củaVNđối với quầnđảoHoàng
Sa và Trường Sa.
Không ai trong số 51 quốc gia dự
hội nghị lên tiếng phản đối tuyên bố
trên. Ngoài ra, cũng không có bằng
chứng cho thấyTrung Hoa Dân Quốc
đã từng phản đối tuyên bố trên. Vào
giai đoạn đó, Trung Hoa Dân Quốc là
đại diện của TQ tại Liên Hợp Quốc.
Đại tá
RAUL PEDROZO
,
cựu cố vấn pháp lý
thuộc Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, Hải quân Mỹ
Họ đã nói
Việc TQ dùng vũ lực
chiếm đảo Phú Lâm
và đảo Ba Bình (năm
1956), toàn bộ Hoàng Sa
(năm 1974) và một số
thực thể khác tại Trường
Sa (năm 1988) đã vi
phạm khoản 4 Điều 2
của Hiến chương Liên
Hợp Quốc.
tích, việc soi xét bối cảnh lịch sử
và thẩm quyền phát ngôn cho thấy
văn kiện này không hàm chứa một
“lời hứa” nào về chủ quyền của
hai quần đảo Trường Sa và Hoàng
Sa. TQ cũng không thể dựa vào
CHPVĐ để chứng minh Thủ tướng
PhạmVăn Đồng có ý định “hứa” và
lập giao kèo công nhận chủ quyền
ở hai quần đảo với TQ” - GS Ngô
Vĩnh Long kết luận.•
Giới học giảMỹ bày tỏ sự ủng hộ đối với Việt Namtrong việc xác lập chủ quyền ở BiểnĐông.
Trong ảnh: LínhMỹ trên tàu sân bay USS Carl Vinson tại ĐàNẵng ngày 5-3-2018. Ảnh: REUTERS
1,2,3 5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,...16
Powered by FlippingBook