7
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứBa17-11-2020
Th. yêu cầu được chuộc đất với giá
5,5 tỉ đồng như đã thỏa thuận.
Bị đơn thừa nhận việc cấn trừ nợ
và thỏa thuận chuộc đất như bà Th.
trình bày. Tuy nhiên, đến hạn chuộc,
không thấy bà Th. đề cập nên nay
bà G. không đồng ý cho chuộc nữa.
Tòa cho chuộc đất theo
giá thị trường
Ngày 12-3-2018, TAND TPQuy
Nhơn (Bình Định) buộc bà G. cho
bà Th. chuộc đất. Tòa buộc bà G.
giao đất và giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất khi bà Th. trả tiền chuộc
theo giá thị trường tại thời điểm và
địa điểm chuộc là hơn 6,2 tỉ đồng...
Tòa này bác yêu cầu chuộc đất theo
giá 5,5 tỉ đồng như đã thỏa thuận
của bà Th. Tòa này cũng bác yêu
cầu đòi bà Th. giao đất để xác lập
quyền sử dụng vĩnh viễn của bà G.
Bà G. kháng cáo, không đồng ý
cho bà Th. chuộc đất. Bà Th. kháng
cáo, đề nghị chấp nhận giá chuộc
đất là 5,5 tỉ đồng.
Ngày 9-10-2018, TAND tỉnhBình
Định sửa một phần án sơ thẩm, cho
bà Th. chuộc đất nhưng với giá
chuộc là 9,1 tỉ đồng. Cả hai đều có
đơn đề nghị xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm.
Ngày 27-7, chánh án TAND Cấp
cao tại Đà Nẵng kháng nghị, đề nghị
Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao
tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm
hủy cả hai bản án.
Giám đốc thẩm hủy
hai bản án
Xử giám đốc thẩm mới đây,
Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp
cao tại Đà Nẵng đã hủy cả hai
bản án để giải quyết lại theo thủ
tục sơ thẩm.
Theo quyết định giám đốc thẩm,
căn cứ Điều 462 Bộ luật Dân sự
2005 và thỏa thuận về việc chuộc
tài sản đã bán thì trong thời hạn hai
năm, bà Th. có quyền chuộc đất bất
cứ lúc nào nhưng phải báo trước
một thời gian hợp lý. Giá chuộc
là giá thị trường tại thời điểm và
địa điểm chuộc nếu không có thỏa
thuận khác.
Hồ sơ vụ án không thể hiện nguyên
đơn có báo trước hay không. Nhật
ký điện thoại mà bà Th. cung cấp
không thể hiện nội dung chuộc đất.
Lời khai của bà về việc nhờ trưởng
văn phòng công chứng gọi cho bà
G. không thống nhất.
Tòa sơ thẩmcho rằnghai bênkhông
thỏa thuận địa điểm, phương thức
chuộc đất nên nguyên đơn không vi
phạm về thời hạn hợp đồng, vẫn có
quyền chuộc nhưng không có quyền
PHƯƠNG LOAN
V
ụ án về đất đai này tuy không
quá phức tạp nhưng vì có nhiều
thiếu sót mà cả hai bản án sơ
thẩm, phúc thẩm đều bị hủy.
Chuyển nhượng đất
để trừ nợ
Theo nguyên đơn là bà Th. thì bà
nợ một người phụ nữ 2,5 tỉ đồng.
Do người đó nợ tiền bà G. nên các
bên thỏa thuận cấn trừ nợ thành bà
Th. nợ bà G.
Sau đó, bà Th. thỏa thuận chuyển
nhượng đất (có nhà trên đất) cho bà
G. để trừ nợ. Tại thời điểm này, đất
của bà Th. đang thế chấp tại ngân
hàng để vay 3,5 tỉ đồng.
Ngày 28-11-2014, tại văn phòng
công chứng, hai bên đã ký văn bản
thỏa thuận với nội dung bà Th.
chuyển nhượng đất cho bà G. thông
qua ủy quyền cho ngân hàng đứng
tên chuyển nhượng. Giá chuyển
nhượng là 6 tỉ đồng. Bà G. phải trả
nợ ngân hàng, tiền còn lại trừ vào
tiền mà bà Th. nợ bà G.
Điều 3 của văn bản thỏa thuận có
nội dung bà Th. được quyền chuộc
đất trong thời hạn hai năm, giá
chuộc là 5,5 tỉ đồng. Quá thời hạn
hai năm kể từ ngày ký văn bản thỏa
thuận, bà Th. không chuộc lại đất
thì bà G. được sử dụng vĩnh viễn.
Gần đến hạn chuộc, ngày 20-10-
2016, bà Th. đến nhà bà G. nhưng
không gặp, gọi điện thoại nhiều
lần nhưng bà G. không nghe. Do
đó, bà Th. gặp trưởng văn phòng
công chứng trình bày việc bà muốn
liên hệ bà G. để chuộc đất. Ngay
khi đó, trưởng văn phòng có gọi
điện thoại cho bà G. nhưng bà
này nói để hai bên thỏa thuận, từ
từ giải quyết.
Từ đó đến nay, hai bên không thỏa
thuận được việc chuộc đất vì bà G.
yêu cầu giá chuộc quá cao. Nay bà
Mơ hồ nhiều điểm, 2 bản án
đều bị hủy
Hai cấp tòa sơ thẩm, phúc thẩmđã chưa làm rõ nguyên đơn có thông báo trước cho bị đơn
ý định chuộc đất trongmột thời gian hợp lý hay không.
yêu cầu chuộc với giá 5,5 tỉ đồng.
Nhận định này của tòa sơ thẩm là
không phù hợp Điều 462 Bộ luật
Dân sự 2005. Văn bản thỏa thuận
chuộc đất không bắt buộc phải có
thỏa thuận về địa điểm, phương
thức thực hiện hợp đồng. Trong
trường hợp này, bà Th. muốn được
chuộc đất với giá 5,5 tỉ đồng phải
chứng minh có báo trước một thời
gian hợp lý.
Tòa sơ thẩm nhận định bà Th. có
báo trước và chấp nhận cho chuộc
đất nhưng tính theo giá thị trường
là không đúng. Giá thị trường chỉ
được áp dụng nếu các bên không
có thỏa thuận khác.
Cũng theo Ủy ban Thẩm phán
TAND Cấp cao tại Đà Nẵng, tòa
phúc thẩm nhận định bà Th. không
chứng minh được việc có báo trước
nên không có quyền chuộc đất. Nếu
xác định như vậy, tòa phải bác yêu
cầu khởi kiện. Tòa cho rằng bà G.
muốn bán tài sản này với một giá
hợp lý và cho bà Th. chuộc theo giá
thị trường là mâu thuẫn với nhận
định ban đầu.
Tòa phúc thẩm tuyên chấp nhận
yêu cầu chuộc đất, buộc bà G. giao
đất và giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất khi bà Th. trả tiền chuộc
theo giá thị trường là 9,1 tỉ đồng.
Bản án tuyên như vậy là không khả
thi. Bởi lẽ bà Th. khởi kiện yêu cầu
được chuộc đất với giá 5,5 tỉ đồng.
Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự
đã từ chối nhận đơn yêu cầu thi
hành án của bà G.
Trong quyết định giám đốc
thẩm, Ủy ban Thẩm phán TAND
Cấp cao tại Đà Nẵng lưu ý: Khi
giải quyết lại vụ án, cần làm rõ bà
Th. có thông báo trước cho bà G.
ý định chuộc đất trong một thời
gian hợp lý hay không và xem
xét giải quyết yêu cầu chuộc đất
phù hợp quy định của Điều 462
Bộ luật Dân sự 2005.•
Đang tạmđình chỉ vụánvẫn trưng cầugiámđịnh
Theo Ủy ban Thẩm phán
TAND Cấp cao tại Đà
Nẵng, giá chuộc đất chỉ
có thể là giá thị trường
nếu các bên không có
thỏa thuận khác.
VKSND TP.HCM vừa nêu một trường hợp giải quyết án
chưa đúng quy định pháp luật của cơ quan điều tra (CQĐT)
và VKSND quận 8, TP.HCM để rút kinh nghiệm chung.
Tháng 6-1997, Công ty TNHH Xây dựng Việt Hoàng
thành lập. Tháng 6-2000, ông Trần Văn Mão được bổ
nhiệm làm giám đốc.
Xét thấy Công ty Việt Hoàng có hành vi kê khai khống
hàng hóa mua vào của bảy công ty để khấu trừ thuế GTGT,
tháng 6-2020, Cơ quan CSĐT Công an quận 8 trưng cầu
giám định số tiền trốn thuế của công ty này. Tháng 7-2004,
Chi cục Thuế quận 8 tạm tính truy thu các khoản thuế trong
ba năm 1999, 2000, 2001 là 1,396 tỉ đồng.
Tháng 8-2005, CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh
bắt tạm giam đối với ông Mão về tội trốn thuế. VKSND
quận 8 đã phê chuẩn các quyết định này.
Tháng 11-2005, CQĐT tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm
đình chỉ điều tra bị can do ông Mão bỏ trốn, bị truy nã.
Tuy nhiên, trong thời gian tạm đình chỉ này, tháng 6-2019,
CQĐT lại trưng cầu giám định (lần một) số tiền trốn thuế
của Công ty Việt Hoàng.
VKSND TP.HCM nhận định việc đang tạm đình chỉ mà
trưng cầu giám định lại là không có căn cứ và không đúng
quy định của BLTTHS. CQĐT chưa xác minh làm rõ
tính pháp lý của kết quả giám định thuế trước đây (tháng
7-2004) đối với tiền thuế thiếu của công ty nhưng lại
trưng cầu giám định lại.
Đến tháng 10-2019, CQĐT bắt ông Mão, phục hồi điều
tra, sau đó cho ông Mão tại ngoại.
Ngày 25-10-2019, Cục Thuế TP.HCM trả lời theo Thông
tư 155/2013 của Bộ Tài chính thì thời hạn bảo quản hồ sơ
khai thuế và quản lý nghiệp vụ thuế của các đối tượng nộp
thuế là 10 năm. Hồ sơ của vụ này đã hết thời hiệu lưu trữ
nên không thể hỗ trợ xác minh kê khai thuế.
Tháng 1-2020, CQĐT đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ
điều tra bị can do không thể xác định số tiền trốn thuế.
Theo VKSND TP.HCM, hồ sơ vụ án chưa thể hiện đầy
đủ căn cứ, cơ sở để đình chỉ nhưng VKSND quận 8 lại
không ra quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ mà lại
thống nhất với CQĐT rồi hai tháng sau ra văn bản xin ý
kiến cấp trên.
VKSND quận 8 khi kiểm sát việc phục hồi điều tra vụ
án không nghiên cứu toàn diện hồ sơ, kiểm sát viên thụ
lý chưa nắm vững các quy định pháp luật, chưa làm hết
trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
dẫn đến việc giải quyết vụ án không đảm bảo quy định
pháp luật.
Theo VKSND TP.HCM, hồ sơ vụ án thể hiện có nhiều
vi phạm nghiêm trọng trong việc lập, lưu trữ tài liệu, hồ
sơ vụ án. Cụ thể, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung
bị can không đóng dấu CQĐT, không có chữ ký điều tra
viên, sử dụng sai mẫu biên bản. Hồ sơ vụ án không có lý
lịch bị can, không có trích lục tiền án, tiền sự và danh chỉ
bản bị can.
TRỊNH PHƯƠNG