284-2023 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Tư13-12-2023
Tiêu điểm
18 tội danh còn án tử
So với BLHS năm 1999, BLHS năm
2015 đã bỏ án tử ở rất nhiều tội danh
và chỉ còn 18 tội danh có hình phạt
cao nhất là tử hình.
Chẳnghạn:Tộigiếtngười(Điều123),
tội hiếp dâmngười dưới 16 tuổi (Điều
142), tội sản xuất, buôn bán hàng giả
làthuốcchữabệnh,thuốcphòngbệnh
(Điều 194), tội sản xuất trái phép chất
ma túy (Điều 248), tội vận chuyển trái
phép chất ma túy (Điều 250), tội mua
bán trái phép chất ma túy (Điều 251),
tội khủngbố (Điều 299), tội thamô tài
sản (Điều 353), tội nhận hối lộ (Điều
354), tội phá hoại hòa bình, gây chiến
tranh xâm lược (Điều 421), tội chống
loài người (Điều 422), tội phạmchiến
tranh (Điều 423)…
YẾN CHÂU
Những thành tựu nhân quyền
ở Việt Nam - Bài 3
Bảo vệ
quyền con
người qua
Bộ luật
Hình sự 2015
Bảo vệ quyền con người làmột trong
những nhiệmvụ quan trọng của luật hình
sự; quyền con người được bảo vệ dưới cả
hai góc độ: Người phạm tội và người bị tội
phạmxâmhại.
Trường ĐH Luật TP.HCM
TSPHANANHTUẤN,
P
háp luật hình sự có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền
con người. Ngay tại Điều 1
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) về nhiệm vụ của BLHS
đã khẳng định bảo vệ quyền con
người là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của luật hình sự.
Quyền con người được bảo vệ
dưới cả hai góc độ: Người phạm tội
và người bị hại (người bị tội phạm
xâm hại) và nó được thể hiện ở cả
phần chung và phần các tội phạm
của BLHS tạo thành hệ thống các
quy phạm làm cơ sở cho việc bảo vệ
quyền con người. Nó phù hợp với
tư tưởng bảo vệ quyền con người
trong Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền và Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966.
Được hồi tố nếu quy định
mới khoan hồng hơn đối
với người phạm tội
Hiệu lực hồi tố của luật hình sự
được hiểu là đạo luật hình sự được
áp dụng đối với hành vi phạm tội
được thực hiện trước khi đạo luật
đó có hiệu lực thi hành. Việc không
cho phép hồi tố trong BLHS một
mặt thể hiện nguyên tắc pháp chế
XHCN; mặt khác thông qua đó bảo
vệ quyền con người, tránh sự tùy
tiện trong việc áp dụng.
Cụ thể, Điều 2 BLHS năm 2015
quy định: “1. Chỉ người nào phạm
một tội đã được BLHS quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự
(TNHS). 2. Chỉ pháp nhân thương
mại nào phạm một tội đã được quy
định tại Điều 76 của bộ luật này mới
phải chịu TNHS”.
Khoản 1 và 2 Điều 7 BLHS năm
2015 quy định: “1. Điều luật được
áp dụng đối với một hành vi phạm
tội là điều luật đang có hiệu lực thi
Hình phạt không chỉ nhằmtrừng trị người phạmtội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạmtội mới…Ảnhminh họa: TRẦN LINH
Một số đối tượng đặc biệt được thoát án tử hình
Theo Điều 40 BLHS, không áp dụng hình phạt tử hình đối với người
dưới 18 tuổi khi phạm tội; phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên... khi phạm tội hoặc khi xét xử.
Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong
các trường hợp sau: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi; người đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về tội tham
ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất
3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng
trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Những trường hợp trên hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được
ân giảm thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.
Các quy định này đã thể hiện sâu sắc tinh thần bảo vệ quyền con người,
coi quyền được sống của con người có giá trị cao nhất. Tinh thần tiến bộ
này hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966.
Mục đích của hình phạt
trong luật hình sự Việt
Nam hiện hành không
nhằm gây đau đớn hoặc
hạ thấp nhân phẩm của
người phạm tội.
hành tại thời điểmmà hành vi phạm
tội được thực hiện. 2. Điều luật quy
định một tội phạm mới, một hình
phạt nặng hơn, một tình tiết tăng
nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp
dụng án treo, miễn TNHS, loại trừ
TNHS, miễn hình phạt, giảm hình
phạt, xóa án tích và quy định khác
không có lợi cho người phạm tội thì
không được áp dụng đối với hành
vi phạm tội đã thực hiện trước khi
điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Các quy định trên đã khẳng định
nguyên tắc bất hồi tố trong luật hình
sự, thể hiện sâu sắc tinh thần bảo
vệ quyền con người.
Tuy nhiên, cũng xuất phát từ
tinh thần bảo vệ quyền con người,
BLHS cũng cho phép áp dụng hồi
tố luật hình sự trong trường hợp
đạo luật hình sự mới khoan hồng
đối với người phạm tội hơn so với
đạo luật hình sự cũ. Cụ thể, khoản
3 Điều 7 BLHS năm 2015 quy định
“3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm,
một hình phạt, một tình tiết tăng
nặng, quy định một hình phạt nhẹ
hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới
hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án
treo, miễn TNHS, loại trừ TNHS,
miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha
tù trước thời hạn có điều kiện, xóa
án tích và quy định khác có lợi cho
người phạm tội thì được áp dụng
đối với hành vi phạm tội đã thực
hiện trước khi điều luật đó có hiệu
lực thi hành”.
Quy định khoan hồng này phù
hợp với tư tưởng bảo vệ quyền con
người trong Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền và Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966.
Độ tuổi chịu TNHS và tình
tiết loại trừ TNHS
Theo luật hình sự Việt Nam, chỉ
những người từ đủ 14 tuổi trở lên
mới phải chịuTNHS. Trong đó phân
hóa về độ tuổi cụ thể như đối với
người phạm tội từ đủ 14 đến dưới
16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng được liệt kê
tại khoản 2 Điều 12 BLHS.
Quy định về độ tuổi phải chịu
TNHS tại Điều 12 BLHS thể hiện
một bước tiến bộ về bảo vệ quyền
con người trong pháp luật hình sự
Việt Nam. Quy định này cũng hoàn
toàn phù hợp với yêu cầu của Công
ước quốc tế về quyền trẻ em.
Về cách tính tuổi của người phạm
tội trong luật hình sự Việt Nam trên
thực tế hiện nay cũng thể hiện yêu
cầu bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên. BLTTHS
cũng đã quy định cách tính độ tuổi
của người phạm tội theo hướng có
lợi cho người phạm tội.
Các tình tiết loại trừ TNHS là
những trường hợp làm cho hành
vi không phải chịu TNHS. Trong
BLHS năm 2015, các tình tiết loại
trừ TNHS gồm: Sự kiện bất ngờ
(Điều 20 BLHS), tình trạng không
có năng lực TNHS (Điều 21), phòng
vệ chính đáng (Điều 22), tình thế
cấp thiết (Điều 23), gây thiệt hại
trong khi bắt giữ người phạm tội
(Điều 24)...
Việc quy định các tình tiết loại
trừ TNHS nhằm cho phép trong
những hoàn cảnh đặc biệt được
luật quy định, con người được tự
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của mình. Quy định này tạo điều
kiện cho người dân tham gia rộng
rãi vào quá trình đấu tranh phòng,
chống tội phạm cũng như tham gia
vào việc quản lý xã hội, quản lý nhà
nước; đồng thời xác định rõ ràng
trong luật hình sự ranh giới giữa
tội phạm và không phải tội phạm.
Những quy định này phản ánh tư
tưởng bảo vệ các quyền con người
thông qua biện pháp tự bảo vệ của
công dân.
Quy định nhân văn về
hình phạt
Điều 31 BLHS quy định: “Hình
phạt không chỉ nhằm trừng trị người,
pháp nhân thương mại phạm tội mà
còn giáo dục họ ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới;
giáo dục người, pháp nhân thương
mại khác tôn trọng pháp luật, phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.
Như vậy, BLHS nhấn mạnh mục
đích của hình phạt ngoài trừng trị
người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội thì còn giáo dục cá
nhân, pháp nhân thương mại tôn
trọng pháp luật, phòng ngừa và
đấu tranh phòng, chống tội phạm
là mục đích chủ yếu. Mục đích của
hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam hiện hành không nhằm gây
đau đớn hoặc hạ thấp nhân phẩm
của người phạm tội.
Đặc biệt, quy định “khi quyết
định hình phạt phải căn cứ vào nhân
thân của người phạm tội” (Điều 50)
thể hiện tư tưởng bảo vệ quyền con
người qua hai khía cạnh.
Thứ nhất
, khi quyết định hình
phạt phải tính đến sự phân hóa nhân
thân của người phạm tội. Nếu người
phạm tội có nhân thân tốt, dễ dàng
cải tạo, giáo dục thì hình phạt phải
nhẹ hơn so với người phạm tội có
nhân thân xấu, khó cải tạo, giáo dục.
Điều này hoàn toàn phù hợp với tư
tưởng bảo vệ quyền con người, với
nguyên tắc công bằng trong luật hình
sự. Trong BLHS năm 2015, sự phân
hóa nhân thân của người phạm tội
khi quyết định hình phạt được thể
hiện rõ nét trong việc quy định các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS
liên quan đến nhân thân của người
phạm tội.
Thứ hai
, bảo vệ quyền con người
khi quyết định hình phạt phải tính
đến ảnh hưởng (tác động tiêu cực)
của hình phạt đến người thân của
người phạm tội, đến người có liên
quan khác. Trong BLHS năm 2015,
khía cạnh này được thể hiện rõ nét
trong quy định về hoãn và tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều
67, 68).•
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook