6
Đến sáng 24-10, Công an thị xã La Gi (Bình Thuận)
vẫn đang phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ Công an tỉnh
Bình Thuận thu thập tài liệu, chứng cứ, xác minh nhân
thân lai lịch và phân loại để xử lý 19 thanh niên có dấu
hiệu chuẩn bị hỗn chiến.
Trước đó, qua công tác tuần tra và nắm tình hình địa
bàn, Công an thị xã La Gi phát hiện thông tin một số
thanh niên ở Đồng Nai đang trên đường kéo đến khu vực
bờ biển Ba Đăng (xã Tân Hải, thị xã La Gi) để đánh nhau
với một số thanh niên tại địa phương.
Công an thị xã La Gi đã huy động lực lượng tổ chức
tuần tra, kiểm soát tại các tuyến ra vào thị xã, đặc biệt là
khu vực bờ biển Ba Đăng.
Đến khoảng 20 giờ 30 ngày 23-10, Công an thị xã La Gi
phối hợp với Công an huyện Hàm Tân phát hiện một ô tô
chở khách đang di chuyển từ huyện Hàm Tân vào thị xã
La Gi có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua
kiểm tra, công an phát hiện có 19 thanh niên trên xe cùng
một số hung khí như côn, bình xịt hơi cay... nên đã đưa về
trụ sở làm việc.
Qua khai thác nhanh, nhóm thanh niên trên khai do có
mâu thuẫn trong làm ăn mua bán hải sản tại khu vực bờ
biển Ba Đăng nên huy động nhiều người mang theo hung
khí đến giải quyết.
PHƯƠNG NAM
Pháp luật
&
cuộc sống -
Thứ Sáu25-10-2024
quan đến thửa đất này để bà Đ tiến
hành thủ tục sang tên.
Ngày 11-3-2016, bà Đ đã hoàn tất
thủ tục và được cập nhật tên trong
sổ hồng. Sau đó, bà Đ đã thanh toán
toàn bộ số tiền chuyển nhượng đất
cho bà T là 160 triệu đồng và bà T
đã bàn giao toàn bộ thửa đất.
Khi nhận bàn giao thửa đất này,
bà Đ đã tiến hành xây tường rào,
cải tạo toàn bộ khu đất cho khang
trang hơn. Lúc này bà Đ không gặp
bất kỳ sự cản trở, gây khó khăn nào
từ bà T hay bất cứ bên thứ ba nào
khác. Thế nhưng, sau đó bà T lại
khởi kiện bà đòi lại thửa đất này.
Trong khi đó, theo bản án, bà T
cho rằng chỉ cho bà Đ thuê thửa
đất này chứ không bán. Ban đầu,
hai bên ký hợp đồng tặng cho. Sau
đó, bà T có tham khảo một số người
thân và họ có ý kiến rằng khi tặng
cho thì bà Đ có toàn quyền bán đất.
Vì vậy, hôm sau, bà T đã đến văn
phòng công chứng để hủy hợp đồng
tặng cho rồi hai bên ký HĐCN.
Lý do là bà T nghĩ chuyển quyền
sử dụng đất cho bà Đ giống như
cho thuê đất, quyền sở hữu phần
đất này vẫn thuộc về bà T. Sau khi
ký HĐCN, bà Đ giữ toàn bộ giấy
tờ liên quan, cả giấy chứng nhận.
Tám tháng sau khi ký HĐCN,
do có nhu cầu cần tiền để sửa nhà
nên bà Đ ứng cho bà T 160 triệu
đồng. Đến tháng 11-2016, bà Tđược
người làm công của bà Đ báo rằng
bà đã bị bà Đ lừa, bà Đ không thuê
thửa đất này mà là mua.
Do vậy, bà T khởi kiện yêu cầu
tòa tuyên vô hiệu HĐCN. Bà T
hoàn trả số tiền 160 triệu đồng và
40 triệu đồng tiền thuê đất, yêu
cầu xóa phần cập nhật tên bà Đ
trong giấy chứng nhận, buộc bà
Đ hoàn trả giấy chứng nhận cho
bà T và tháo dỡ các kiến trúc xây
dựng trên đất.
Văn phòng công chứng thì cho
rằng việc chứng nhận hợp pháp, hợp
lệ, đúng pháp luật, phù hợp với ý
chí, mong muốn, nguyện vọng của
các bên. Việc bà T yêu cầu tuyên
bố văn bản công chứng vô hiệu là
không có căn cứ.
Lập luận của tòa
Xử sơ thẩm, TAND TP.HCM
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
bà T, tuyên HĐCN vô hiệu; buộc
bà Đ và hai người liên quan di dời
toàn bộ vật dụng trên đất và giao
thửa đất cho bà T quản lý, sử dụng.
Bà T có quyền liên hệ với cơ
quan có thẩm quyền để điều chỉnh
tên hoặc cấp lại sổ hồng. Bà T có
trách nhiệm trả cho bà Đ 160 triệu
đồng đã nhận chuyển khoản và 40
triệu đồng đã nhận tiền thuê đất
của bà Đ…
Sau khi xử sơ thẩm, bà Đ, văn
phòng công chứng và hai người
liên quan kháng cáo.
Xử phúc thẩm hồi tháng 8, TAND
Cấp cao tại TP.HCM nhận định quá
trình thực hiện HĐCN không thể
hiện việc thỏa thuận, đặt cọc chuyển
nhượng như giao dịch thông thường.
Chỉ sau một ngày lập hợp đồng
tặng cho thì hai bên lại đến văn
phòng công chứng hủy bỏ và trong
cùng ngày ký HĐCN. Những tình
tiết trên thể hiện về mặt ý chí, từ
ban đầu hai bên không thỏa thuận
với nhau về việc thực hiệnHĐCN…
Theo chứng thư thẩm định giá
ngày 1-10-2021 của Công ty TNHH
ThẩmđịnhMthì tại thời điểmchuyển
nhượng, thửa đất có giá hơn 3,5 tỉ
đồng. Tuy nhiên, bà T và bà Đ lại
thỏa thuận giá trị chuyển nhượng
YẾNCHÂU
T
ANDCấp cao tại TP.HCMmới
đây xét xử phúc thẩm vụ tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng
(HĐCN) quyền sử dụng đất giữa
nguyên đơn là bà DTT và bị đơn
là bà THĐ (đều ngụ TP.HCM).
Đáng chú ý, hai bên tranh chấp
quyền sử dụng đất được cập nhật
sang tên từ nguyên đơn sang bị đơn
đã hơn tám năm.
Được cấp sổ hồng
từ năm 2016
Theo bà Đ, ngày 25-2-2016, bà T
(dì của bà Đ) và bà ký kết HĐCN,
bà T chuyển nhượng cho bà Đquyền
sử dụng đất hơn 500 m
2
tại quận
Bình Tân với giá 160 triệu đồng.
Sau khi ký hợp đồng, bà T đã bàn
giao toàn bộ bản chính giấy tờ liên
Thửa đất tranh chấp. Ảnh: TRẦN LINH
160 triệu đồng là không đúng với
giá trị thực tế của tài sản. Sau khi ký
kết hợp đồng, tám tháng sau bà Đ
mới chuyển 160 triệu đồng cho bà T.
HĐXX phúc thẩm cho rằng bà
T chuyển nhượng tài sản cho bà
Đ, bà Đ đã lập thủ tục sang tên và
được cập nhật chủ sử dụng đất theo
quy định từ tháng 3-2016 nhưng
trong khoảng thời gian sáu tháng
(từ tháng 3 đến tháng 9-2016), bà
T không yêu cầu bà Đ thanh toán
tiền chuyển nhượng là không phù
hợp với lẽ thông thường. Lời trình
bày của bà T về 160 triệu đồng là
tiền thuê nhà có phần phù hợp hơn.
Đánh giá quá trình các bên
thỏa thuận, giao kết và thực hiện
hợp đồng, HĐXX phúc thẩm cho
rằng việc chuyển từ ký hợp đồng
tặng cho sang HĐCN chỉ sau một
ngày, thỏa thuận giá trị chuyển
nhượng chênh lệch quá lớn so với
giá trị thực tế của tài sản; không
thực hiện thanh toán ngay sau khi
chuyển nhượng… chứng minh lời
trình bày của bà T rằng không có
việc chuyển nhượng trên thực tế
là có căn cứ.
Từđó, TANDCấp cao tạiTP.HCM
tuyên không chấp nhận kháng cáo,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.•
Theo HĐXX, việc chuyển
từ ký hợp đồng tặng cho
sang chuyển nhượng chỉ
sau một ngày, thỏa thuận
giá trị chuyển nhượng
chênh lệch quá lớn so
với giá trị thực tế của tài
sản… chứng minh lời
trình bày “không có việc
chuyển nhượng trên thực
tế” là có căn cứ.
19 thanh niên mang hung khí từ Đồng Nai đến Bình Thuận để hỗn chiến
Mua đất được
cấp sổ hồng
hơn 8 năm thì
bị tòatuyênhủy
Bị đơn cho rằngmình đãmua đất hợp pháp
và đã được cấp sổ hồng hơn támnămnhưng
tòa án vẫn tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng
là không có căn cứ nên đề nghị giámđốc thẩm.
Không đồng tình với phán quyết của hai cấp tòa, bà
Đ cho biết đã làm đơn đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm. Theo bà Đ, việc tòa án nhận định hai bên không
thỏa thuận đặt cọc nên không như giao dịch thông
thường là không có căn cứ, trái với nguyên tắc tự do ý
chí, tự do thỏa thuận. Vì đặt cọc là biện pháp bảo đảm
và luật không bắt buộc các bên phải đặt cọc khi giao
kết hợp đồng.
Bàmua đất của bàT, ký hợp đồng tại văn phòng công
chứng thể hiện đúng ý chí của các bên. Bà đã hoàn
thành các nghĩa vụvàđãđược cấp sổhồng từnăm2016.
Sau khi ký hợp đồng, bà đã nhận đất và tiến hành
một số hoạt động trên đất như thuê người xây hàng
rào, san lấp mặt bằng, cho người khác thuê đất (có ký
hợp đồng thuê đất tại văn phòng công chứng)… Vì
vậy, việc tòa nhận định bà T không tiến hành giao đất
cho bà Đ như tiến trình thông thường là không đúng.
Bà và bà T là quan hệ họ hàng. Tại HĐCN quyền sử
dụng đất, hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng 160
triệu đồng là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản
1 Điều 431 BLDS 2005 “giá do các bên thỏa thuận”.
Sau khi nhận chuyển nhượng, bà đã phải đầu tư rất
nhiều chi phí xây hàng rào, san lấp để tôn tạo thửa đất.
Thế nhưng khi tòa án tiến hành thẩm định giá không
có mặt bà nên việc thẩm định giá không đảm bảo tính
khách quan.
Bên cạnhđó, giấy nộp tiền tại ngânhàngđãghi rõ160
triệu đồng là “thanh toán HĐCN đất ngày 25-2-2016”.
Theo đó, nội dung thanh toán là thanh toán HĐCN chứ
không phải là thanh toán tiền thuê đất như tòa án đã
nhận định…
BàĐđang cho người thuê đầu tư, nuôi trồng thủy sản
(cua). Ảnh: TRẦN LINH
Bị đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm