079 - page 5

5
Pháp Luật TP.HCM
Chủ nhật 30-3-2014
Tuan thoi su
lý nhà nước không?
+ Phải đặt câu hỏi ngược lại: Nhà nước cần quản
cái gì và tại sao phải quản? Không trả lời được, không
xác định được rõ ràng mục đích của quản lý thì đừng
nói là phải quản lý. Nhưng ngay cả khi nêu ra được
mục đích nào đó thì lại phải nhớ đừng đạt mục đích
bằng mọi giá mà phải bằng chi phí xã hội thấp nhất
thì hẵng làm.
. Vậy quay trở lại quy định DN phải đăng ký ngành
nghề kinh doanh vẫn đang tồn tại trong Luật DN hiện
hành. Khi đưa điều khoản đó vào luật, người ta xác
định mục đích là gì?
+ Khi làm Luật DN 2005 đã có ý kiến đề nghị bỏ
rồi. Nhưng quan điểm áp đảo khi đó là vẫn phải giữ,
cho dù không xác định được mục đích cụ thể của quy
định. Thế rồi trải qua thời gian mới thấy hóa ra nó
chả có ý nghĩa gì cả mà chỉ thêm cản trở gia nhập
thị trường của DN.
Với lại qua thực tiễn, Nhà nước cũng thấy rằng chỉ
cần quản lý thông qua việc xác định những ngành
nghề kinh doanh có điều kiện là được. Cho nên nay
có thể bỏ hẳn quy định chung về đăng ký ngành nghề
kinh doanh, thay vào đó Nhà nước chỉ tập trung kiểm
soát về điều kiện kinh doanh trong những trường hợp
cụ thể, cần thiết, được định trước.
. Nhưng còn khái niệm ngành nghề kinh doanh có
điều kiện - tức là vẫn phải giấy phép - phải xin-cho
và rất dễ “bôi trơn”, tiêu cực?
+ Không tránh khỏi được. Vấn đề là phải tiếp tục
đấu tranh để rà soát xem ngành nghề nào thực sự
cần điều kiện và điều kiện nào có thể đơn giản hóa
thủ tục giấy tờ.
Chẳng hạn, xăng dầu là ngành kinh doanh có điều
kiện. Để lấy được giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh xăng dầu thì DN phải xin mười mấy giấy bổ
trợ nữa. Vậy cần rà soát xem có bớt được giấy bổ
trợ nào không. Có thể đơn giản hóa theo cách DN
chỉ phải tới một cửa cơ quan nhà nước, còn các thủ
tục phụ trợ khác, các cơ quan chức năng phải tự làm
việc với nhau...
Nói chung ngay cả khi Nhà nước phải can thiệp thì
cũng phải tính sao thuận lợi nhất cho DN, cho người
dân, với chi phí thấp nhất.
. Nhưng thực tế danh mục ngành nghề kinh doanh
có điều kiện vẫn đang ngày một dài ra và DN vẫn
than khổ với rừng giấy phép, thủ tục. Xem ra cải cách
thể chế kinh tế không hề dễ?
+ Tôi nói đâu có gì mới. Rất nhiều nội dung cải
cách đã có từ Nghị quyết Trung ương 6, rồi được
chỉ ra trong Chương trình hành động của Chính phủ
từ mấy năm trước nhưng đến nay đâu đã được thực
sự triển khai.
Vai trò của Nhà nước là làm cho thị trường vận
hành tốt, qua đó tự nó điều chỉnh hành vi của DN.
Nếu quan niệm được thế thì trước mỗi quyết định,
cơ quan nhà nước sẽ phải tự đắn đo là làm thế có
tốt cho thị trường, có phù hợp với quy luật vận hành
của thị trường không, liệu để thị trường tự điều chỉnh
có tốt hơn không. Nhà nước rút lui, càng bớt sự can
thiệp hành chính vào thị trường thì môi trường kinh
doanh tự nó sẽ lành mạnh, sẽ bớt đi nguy cơ, kẽ hở
cho tiêu cực, tham nhũng. Giải pháp suy cho cùng
vẫn là thị trường, thị trường và thị trường.
. Xin cảm ơn ông.
Cácvụnướcngoài hối lộViệtNam
l
Năm2008, Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ SEC cáo
buộc Siemens AG “dùng các khoản hối lộ để thắng
thầu các thiết bị y tế tại Việt Nam”.
l
Năm 2010, căn cứ theo tài liệu của tòa án Đức,
“Daimler AG và các chi nhánh đã chi 10 triệu USD
hối lộ cho các quan chức ở ít nhất 22 quốc gia”trong
đó có Việt Nam.
l
Cũng năm 2010, Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ
(SEC) cáo buộc Công ty Viễn thông VERAZ đã“hối lộ
tổng giámđốc của một công ty viễn thông nhà nước
ở Việt Nam để thắng thầu”.
l
Năm 2010, Nexus Technology bị phạt 27 triệu
USD, ba nhân viên của họ nhận án tù hàng chục năm
vì“hối lộ các cơ quan chính phủ tại Việt Nam”. Vụ này
có được nhắc đến trên báo chí trong nước nhưng
hình như đến nay vẫn chưa có kết quả.
l
Năm 2011, cũng vì các vụ hối lộ ở Việt Nam,
hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới Aon bị Bộ Tư pháp
Mỹ phạt 1,75 triệu USD.
ĐỨC HOÀNG
Giámsát
quyềnlựccông
đểphòng, chống
thamnhũng
DIỆPVĂNSƠN
Vừa qua công luận quan tâm nhiều đến các vụ công ty tư vấn giao
thông Nhật Bản
cho quan chức ngành đường sắt Việt Nam hơn
80 triệu yen để trúng gói thầu tư vấn dự án đường sắt đô thị số 1 tại
Hà Nội. Vụ thứ hai là Công ty Sing-Việt của Singapore “bôi trơn”
quan chức 2,8 triệu USD để được cấp phép xây dựng khu đô thị.
Trước thực trạng trên nhiều ý kiến cho rằng phải đặt ra cho được cơ
chế giám sát quyền lực công.
Xưa nay quyền lực là một vấn đề nhạy cảm, một con dao hai lưỡi.
Ở đâu có quyền lực ở đó có người đến luồn cúi, cầu cạnh, bớt xén...
Và ai cũng biết rằng khi quyền lực không được kiểm soát hay kiểm
soát không có hiệu quả thì thật tai hại!
Tham nhũng là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển,
quản lý kinh tế-xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các
hành vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện
phát triển và tại đó một phần quyền lực chính trị được biến thành
quyền lực kinh tế.
Lý thuyết kinh tế đã nêu hai quan điểm cơ bản về tham nhũng. Quan
điểm thứ nhất coi tham nhũng là yếu tố ngoại sinh, quan điểm thứ
hai cho rằng tham nhũng là nhân tố nội sinh trong chính trị. Nếu áp
dụng một trong hai quan điểm trên, chúng ta có thể chia tham nhũng
thành ba loại cơ bản: tham nhũng để đẩy nhanh tiến độ, tham nhũng
hành chính và “bẻ cong pháp luật”. Mặc dù trong hầu hết trường hợp,
tham nhũng có thể là do tình trạng vơ vét bổng lộc gây ra, song những
cá nhân ích kỷ tìm cách tối đa hóa lợi ích của riêng họ cũng như các
bộ luật phức tạp, mập mờ và thiếu tính khả thi cũng là nguyên nhân
dẫn tới tình trạng đó
.
Theo nghiên cứu tại 160 nước, ở những nước không đảm bảo tốt các
quyền của công dân, mức độ tham nhũng cao. Còn ở Indonesia, nghiên
cứu về 36 cơ quan công quyền cho thấy cơ quan nào tạo điều kiện cho
người dân được lên tiếng nhiều hơn thì ít tham nhũng hơn. Ở Bolivia,
điều tra về 46 cơ quan công quyền chứng minh rằng ở đâu người dân
có tiếng nói hơn thì ở đó người nghèo có cơ hội tiếp cận các dịch vụ
công nhiều hơn. Cơ chế tuyển dụng công khai, minh bạch, dựa trên
tiêu chí năng lực, đạo đức cũng giúp giảm tham nhũng. Muốn kiểm
soát tham nhũng tốt, không thể chỉ dựa trên các biện pháp kỹ thuật
mà điều quan trọng hơn cần xây dựng một nền quản trị quốc gia lành
mạnh. bao gồm: pháp quyền, nhất là sự độc lập của tòa án; cải cách
bộ máy hành chính; tăng cường sự giám sát của nghị viện; giám sát
của xã hội dân sự, nhất là báo chí; chính sách kinh tế dựa trên cạnh
tranh, tư nhân hóa và bớt kiểm soát; hệ thống tài chính minh bạch,
với chế độ mua sắm công công khai và cơ quan kiểm toán mạnh; cải
cách các cơ quan hải quan, thuế vụ… Đặc biệt, cuộc chiến chống tham
nhũng phải dựa trên liên minh rộng rãi bao gồm các tổ chức xã hội và
báo chí: 48% người được hỏi đã cho rằng đây là điều kiện tiên quyết
để chống tham nhũng thành công.
Trong cái cơn lốc mê hồn trận tham nhũng, đưa đến nguy cơ hình
thành “văn hóa tham nhũng” trong đời sống cộng đồng. Lúc ấy chỉ
có văn hóa đích thực mới đánh bại được thứ “văn hóa phản văn hóa”.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề xuất nhiều giải pháp phòng,
chống tham nhũng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, các giải pháp phải tạo dựng
cho được văn hóa KHÔNG MUỐN - KHÔNG DÁM - KHÔNG THỂ.
- Không muốn
, thuộc phạm trù đạo đức lối sống. Tuy nhiên, nó cũng
cần được bổ trợ bởi môi trường sống dư luận xã hội và trên hết là một
điều kiện vật chất khả dĩ để công chức có thể sống thanh cao.
- Không dám
, cần phải viện đến một môi trường pháp luật nghiêm
minh, pháp chế mạnh, xã hội thượng tôn pháp luật, không ai đứng trên
pháp luật.
- Không thể
, đòi hỏi phải tạo lập một nền hành chính “trong suốt”
để mọi người có thể dễ dàng giám sát, tạo lập một “công nghệ hành
chính” tiên tiến (thí dụ như tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000). Áp dụng
nghiêm ngặt “công nghệ” đó, khi một khâu nào trong dây chuyền làm
không đúng sẽ bị phát hiện và bị loại ra, đồng thời đòi hỏi mọi chủ thể
trong xã hội phải minh bạch và có tính giải trình cao.
1,2,3,4 6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook