193-2019 - page 11

11
Kinh tế -
ThứBảy24-8-2019
nên đưa ra một tiêu chí chung cho
tất cả các loại hàng hóa.
Ông Quốc Anh lấy dẫn chứng
ngành cao su phụ thuộc vào nguồn
nguyên vật liệu nhập khẩu rất lớn.
Vì vậy, nguyên vật liệu nhập khẩu
phải dưới 50%; phần gia công, sản
xuất tại Việt Nam phải trên 50% thì
mới nên ghi “made in Vietnam”.
Còn phần nguyên vật liệu nhập quá
nhiều, trên 50% thì không được ghi
“made inVietnam” mà chỉ được ghi
lắp ráp hoặc gia công tại Việt Nam.
Tuy vậy theo ông Anh, dù nội
địa hay xuất khẩu cũng cần có một
tiêu chuẩn chung về việc ghi nhãn
“made in Vietnam”. Ví dụ, trong
khối ASEAN, mặt hàng ô tô nhập
khẩu để được miễn thuế phải đáp
ứng trên 40% tỉ lệ nội khối.
Còn theo chuyên gia thương hiệu
LýTrường Chiến, ở các nước có nền
công nghiệp phát triển đã tạo được
thương hiệu “made in” như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Thái Lan…, hiện
nay dùng nhiều khái niệm mở đối
với xuất xứ sản phẩm chứ không
bắt buộc chỉ ghi “made in”. Riêng
một số nước có nền kinh tế đang hội
nhập như Việt Nam thường dùng
khái niệm “made by” (được tạo ra
bởi) nhiều hơn là “made in”. Ví dụ
như “made by Nokia”, “made by
Samsung”…
“Made by” được hiểu rằng tại
các nước đang phát triển một sản
phẩm được tạo ra bởi nhiều công
ty đến từ nhiều quốc gia, mặt khác
cũng do sản phẩm được tạo ra bởi
hãng nào thì hãng đó phải chịu trách
nhiệm với người tiêu dùng. Còn khi
“made in” trở thành bảo chứng cho
chất lượng sản phẩm của một quốc
gia thì một số nước đưa ra tiêu chí
rất cao để tránh những mặt hàng
kém chất lượng gây ảnh hưởng đến
thương hiệu chung của hàng hóa sản
xuất từ nước đó. Đơn cử tại Đức,
Nhật, Pháp, Mỹ… Nghĩa là họ ghi
“made in” cho những sản phẩm có
Made in Vietnam: Sẽ có
tiêu chuẩn rõ ràng hơn!
Tiêu chí “made in Vietnam” cần hướng tới mục tiêu và lợi íchmà sản phẩmViệt Nammuốn đạt được
tại thị trường xuất khẩu.
Sẽ quy định chặt
chẽ hơn về tỉ lệ
nội địahóađể
xác địnhmade in
VietNam.
Trongảnh:
Triển lãmô tôViệt
Namtại TP.HCM.
Ảnh: HTD
giá trị thương hiệu quốc gia, những
sản phẩm có giá trị hàm lượng công
nghệ cao.
“Với xu hướng toàn cầu hóa,
sản phẩm tạo ra từ các nguyên, vật
liệu, linh kiện được sản xuất khắp
thế giới, khái niệm “made by” được
các nước sử dụng nhiều hơn “made
in”” - ông Chiến chia sẻ.
Linh hoạt theo tiêu chuẩn
quốc tế
Là một chuyên gia trong lĩnh vực
công nghiệp ô tô, nhiều năm làm
cho hãng xe danh tiếng tại Đức, ông
NguyễnMinh Đồng cho biết “made
inGermany” hay “made in Japan”…
đã là thương hiệu, tạo được uy tín
trên toàn thế giới từ lâu vì những
nước này có khoa học kỹ thuật phát
triển ở trình độ cao. Thế nhưng xu
thế hiện nay là chuỗi sản xuất toàn
cầu, chiếc ô tô mang thương hiệu
Đức nhưng nhiều bộ phận, giá trị
tạo ra lại từ nhiều nước châu Âu,
từ Nga hoặc từ các nước châu Á…
Vì thế, ở Đức tiêu chí ghi “made
in” cũng thay đổi, có tiêu chuẩn rất
rõ ràng. Đối với những sản phẩm có
giá trị nội địa sản xuất chiếm80% thì
mới được ghi “made in Germany”,
còn ghi “made in Europe” thì giá
trị tạo ra sản phẩm phải 80% đến từ
châu Âu. Nếu tỉ lệ đó ở mức thấp
hơn thì ghi “made in for Europe”,
ghi lắp ráp tại Đức hoặc lắp ráp tại
châu Âu.
Liên hệ với câu chuyện tiêu chí
“made in” cho hàng hóa Việt Nam,
theo ông Đồng, Bộ Công Thương
muốn xây dựng tiêu chuẩn “made in
Vietnam” cho sản phẩm Việt Nam
thì cần dựa theo tiêu chuẩn của thế
giới và phải hướng đến xuất khẩu.
Vì khi xuất khẩu sang các nước trên
thế giới, tiêu chuẩn “made in” liên
quan đến xác định áp dụng các loại
thuế suất, đến gian lận thương mại.
Nếu Việt Nam tự đưa ra tiêu chuẩn
“made in” nhưng khi các nước nhập
khẩu hàng Việt lại không công nhận
thì tiêu chuẩn “made in” có cũng
như không.
“Bằng chứng mới đây, sắt thép
Trung Quốc nhập sang Việt Nam
mượn xuất xứ Việt Nam để xuất
khẩu đã bị Mỹ, EU phát hiện. Kết
quả là các sản phẩm sắt thép Việt
Nam bị đánh thuế nhập khẩu vào
các thị trường trên rất cao. Vì vậy,
đối với hàng xuất khẩu, cần có tiêu
chí về tỉ lệ nội địa hóa tạo nên sản
phẩm và giám sát chặt chẽ tỉ lệ đó
mới được ghi “made in Vietnam””
- ông Đồng góp ý.
Đồng quan điểm, chuyên gia
thương hiệu Lý Trường Chiến cho
rằng khi xây dựng tiêu chí “made
in”, cơ quan chức năng ngoài việc
xác định thị trường mục tiêu cho
tiêu chuẩn đó còn phải xác định gắn
“made in Việt Nam” vào sản phẩm
là tạo sự bảo chứng về chất lượng
sản phẩm, tạo thương hiệu quốc gia.
Ngoài ra, tiêu chí đó phải cập nhật
xu hướng hội nhập cũng như căn cứ
vào sự phát triển của nền kinh tế thế
giới. “Bên cạnh “made in” dành cho
sản phẩm xuất khẩu thì những sản
phẩm bán tại thị trường nội địa nên
ghi là “made by”, ông Chiến gợi ý. •
Cây xoài mặc dù lấy
giống từ Thái Lan
nhưng được trồng và thu
hoạch tại Việt Nam thì
quả xoài được coi là sản
phẩm của Việt Nam.
Nên tham khảo cách Trung Quốc đã làm
ChuyêngiathươnghiệuLýTrườngChiếnnhậnđịnhTrungQuốcđãtrảiqua
thời gian chuyên gia công, lắp ráp nhưViệt Nambây giờ.Trong quá trình đó,
Trung Quốc cũng đưa ra tiêu chí“made in China”và“made by…”để gắn lên
sản phẩm có xuất xứ hoặc được sản xuất từTrung Quốc.
“Made in China” được Trung Quốc sử dụng linh hoạt theo tiêu chí của
từng thị trường mà sản phẩm hướng đến. Ví dụ, hàng hóa Trung Quốc khi
xuất khẩu vào các nước ASEAN thì họ làm theo tiêu chí mà các nước ASEAN
đưa ra đối với hàng nhập khẩu (tỉ lệ nội địa hóa phải đạt 40%) để gắn mác
“made in China”cho sản phẩm đó; đối với hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu
đi thị trường châu Âu, Mỹ… thì họ cũng căn cứ quy định của các thị trường
trên để ghi“made in China”. Còn đối với những sản phẩmcủa các công ty đa
quốc gia, Trung Quốc thường dùng“made by”…
“Hiệu ứng của “made in China” và “made by…” từ quy định linh hoạt của
TrungQuốc có thể làmột phầnnguyênnhân khiếnhànghóa từTrungQuốc
đến được nhiều nơi trên thế giới như hiện nay. Do đó việc xây dựng tiêu chí
“made in Việt Nam” cho hàng hóa từ Việt Nam cũng nên tham khảo cách
Trung Quốc đã làm”- ông Chiến gợi ý.
QUANGHUY
M
ới đây, Bộ Công Thương
đã ban hành dự thảo thông
tư quy định về một sản
phẩm được coi là “sản phẩm của
Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt
Nam”. “Nếu dự thảo được áp dụng
vào thực tế, các doanh nghiệp chân
chính sẽ không phải đối diện với
nguy cơ cáo buộc gian lận xuất xứ,
tránh được rủi ro kiện tụng và mất
uy tín với người tiêu dùng. Thông tư
cũng sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng
hàng nhập khẩu nhập nhèm đội lốt
hàng Việt Nam như đã rải rác xảy
ra trong thời gian qua” - Thứ trưởng
Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh
khẳng định.
Tuy vậy, một số ý kiến cho rằng
dự thảo thông tư còn một số bất cập.
Tỉ lệ nội địa hóa phải
trên 50%?
Theo dự thảo, một trong những
tiêu chí quan trọng nhất để xác định
một sản phẩm hàng hóa là hàngViệt
nếu đảm bảo được các yếu tố: 30%
hàm lượng giá trị gia tăng của hàng
hóa trên lãnh thổ Việt Nam và trải
qua công đoạn gia công, chế biến
cuối cùng tại nước ta.
Ông Nguyễn QuốcAnh, Chủ tịch
Hội Cao su - Nhựa TP.HCM, góp ý:
Mỗi ngành sản xuất có một đặc thù
riêng, vì vậy tiêu chí xuất xứ “made
in Vietnam” cũng phải có những
tiêu chí riêng cho từng sản phẩm
của từng ngành hàng chứ không
Tiêu điểm
Xoài Thái sẽ đổi thành
xoài Việt?
ĐạidiệnBộCôngThươngchobiếtdự
thảo thông tư quy định: Cây trồng và
các sản phẩm từ cây trồng được trồng
và thu hoạch tại Việt Nam được coi là
hàng hóa có xuất xứ thuần túy. Vì vậy,
cây xoài mặc dù lấy giống từ Thái Lan
nhưngđược trồngvà thuhoạch tạiViệt
Nam thì quả xoài được coi là sản phẩm
củaViệt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vừa yêu cầu
các ngân hàng thương mại kiểm soát rủi ro trong hoạt
động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp (DN). Theo NHNN,
hoạt động đầu tư trái phiếu DN của các ngân hàng thương
mại còn tiềm ẩn rủi ro khi một số ngân hàng có số dư đầu
tư trái phiếu DN chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản và
tiếp tục tăng nhanh. Đáng chú ý, số dư đầu tư trái phiếu
vào lĩnh vực xây dựng, bất động sản lớn khi thị trường bất
động sản chưa phục hồi vững chắc, hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DN vẫn còn nhiều khó khăn.
Chính vì vậy, NHNN yêu cầu các nhà băng rà soát hoạt
động này, đặc biệt là việc đầu tư hoặc tăng quy mô vốn
cho các tổ chức phát hành trong lĩnh vực kinh doanh bất
động sản; các ngân hàng thương mại không được mua trái
phiếu nhằm cơ cấu lại khoản nợ của doanh nghiệp DN
phát hành, đồng thời phải có biện pháp giám sát sau cho
vay, hạn chế nợ xấu phát sinh.
Mới đây, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cũng lưu ý
nếu không kiểm soát tốt việc phát hành trái phiếu DN sẽ
có rủi ro, ảnh hưởng tới thị trường tín dụng và cân đối vĩ
mô. Bởi lãi suất một số đợt phát hành cao 13%-14%, cá
biệt có DN bất động sản phát hành tới 14%-15%, cao hơn
lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại, các tổ chức
tín dụng khác. Trong khi tổ chức phát hành trái phiếu DN
hầu như chưa được xếp hạng tín nhiệm nên tiềm ẩn rủi ro
cho nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân không đủ thông
tin phân tích rủi ro.
TL
Rà soát hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp
1...,2,3,4,5,6,7,8,9,10 12,13,14,15,16
Powered by FlippingBook