207-2019 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứBa10-9-2019
trốn ra nước ngoài dễ dàng, trong
khi các lĩnh vực phi hình sự thì việc
cấm xuất cảnh được làm rất chặt.
Luật sư (LS) Nguyễn Hữu Thế
Trạch (Đoàn LS TP.HCM) phân
tích, khoản 1 Điều 21 Nghị định
136/2007 của Chính phủ quy định
công dân Việt Nam chưa được xuất
cảnhnếuđangbị truy cứu tráchnhiệm
hình sự hoặc có liên quan đến công
tác điều tra tội phạm. Cụm từ “có
liên quan đến công tác điều tra tội
phạm” được hiểu là những người
làm chứng, giám định viên… khi
cần thiết phải triệu tập làm rõ quá
trình điều tra thì CQĐT sẽ yêu cầu
tạm hoãn xuất cảnh mà không cần
phải có VKS phê chuẩn.
Theo BLTTHS năm 2015 thì
thấy điểm bất cập giữa biện pháp
cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn
xuất cảnh là nếu người bị cấm đi
khỏi nơi cư trú thì vẫn có thể xuất
cảnh. Bởi quyết định của cơ quan
có thẩm quyền không đề cập đến
việc gửi quyết định đến Cục Quản
lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an.
Ngược lại, người bị áp dụng biện
pháp tạm hoãn xuất cảnh thì vẫn có
thể đi khỏi nơi cư trú, dẫn đến khó
khăn trong việc điều tra, lấy lời khai.
Vì thế, theo LS Trạch, cần phải quy
định khi đã áp dụng biện pháp cấm
đi khỏi nơi cư trú là đồng nghĩa với
việc tạm hoãn xuất cảnh.
Cũng theo LS Trạch, thẩm quyền
áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi
cư trú và tạm hoãn xuất cảnh thuộc
thủ trưởng và phó thủ trưởng CQĐT.
Vì vậy luật cũng cần quy định trách
nhiệmcủa hai chủ thể này nếu cố tình
không áp dụng hoặc sơ suất dẫn đến
bị can bỏ trốn khỏi nơi cư trú, xuất
cảnh. Ngoài ra cũng cần quy định cụ
thể các trường hợp bị áp dụng biện
pháp cấmđi khỏi nơi cư trú hoặc tạm
hoãn xuất cảnh để áp dụng chung…
Khó bởi từ “có thể”
trong luật
Theo LS Nguyễn Hoài Nghĩa
(Đoàn LS TP.HCM), trong hình sự
khi xử lý tin báo, tố giác tội phạm
hoặc kiến nghị khởi tố thì để kịp
thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi
có căn cứ chứng tỏ người bị buộc
tội sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội... thì cơ quan, người có
thẩm quyền có thể áp dụng biện
pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 109
BLTTHS 2015).
Cụ thể, có thể tạm hoãn xuất cảnh
đối với những người sau đây khi có
căn cứ xác định việc xuất cảnh của
họ có dấu hiệu bỏ trốn: Người bị tố
giác, ngươi bị kiến nghị khởi tố mà
qua kiểm tra, xác minh có đủ căn
cứ xác định người đó bị nghi thực
hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đó trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ…
Theo LS Nghĩa, với trường hợp
của bà Đào Thị Hương Lan thì đã
bị khởi tố nên CQĐT xem xét tùy
tính chất, mức độ hành vi phạm tội
mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn
tại Điều 109 BLHS 2015 như tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh... Vậy giả sử bà Lan xuất cảnh
bỏ trốn thì sao? Điều 109 BLTTHS
2015 không quy định cụ thể các tiêu
chí đối với một loại tội phạm hoặc
bị can, bị cáo mà quy định tùy nghi
là “có thể” nhưng lại ràng buộc “khi
có căn cứ xác định việc xuất cảnh
của họ có dấu hiệu bỏ trốn”. Tức
là CQĐT phải biết hay nhận được
thông báo là họ sẽ xuất cảnh, sau
NGÂNNGA
N
Pháp Luật TP.HCM
đã
phản ánh, Cơ quan CSĐT
Bộ Công an đã ra quyết định
truy nã đối với bà Đào Thị Hương
Lan (cựu giám đốc Sở Tài chính
TP.HCM, trú quận 2, TP.HCM).
Bà Lan bị khởi tố về tội vi phạm
quy định về quản lý, sử dụng tài
sản nhà nước gây thất thoát, lãng
phí theo Điều 219 BLHS 2015 và
đã bỏ trốn. Bà Lan liên quan đến
vụ ông Nguyễn Hữu Tín và bốn
nguyên cán bộ sai phạm khi giao
đất vàng 15 Thi Sách cho Phan
Văn Anh Vũ (tức Vũ “nhôm”). Có
thông tin cho rằng bà Hương đã bỏ
trốn ra nước ngoài, tuy nhiên phía
công an chưa xác nhận điều này.
Luật không buộc phải
cấm xuất cảnh
Trước đó, cuối năm2017, Cơ quan
An ninh điều tra Bộ Công an khởi
tố bị can đối với Vũ “nhôm” về tội
cố ý làm lộ tài liệu bí mật nhà nước.
Vũ bỏ trốn và công an cũng phải
phát lệnh truy nã. Đầu năm 2018,
lực lượng chức năng của Việt Nam
đã đưa được Vũ từ Singapore về để
tiếp tục điều tra.
Từ những vụ việc trên, nhiều người
thắc mắc vì sao có tình trạng các bị
can sau khi đã khởi tố vẫn có thể bỏ
BàĐào Thị Hương Lan - người đã bỏ trốn
(trái)
và Vũ “nhôm” - người từng trốn ra nước ngoài. Ảnh: BCA - HOÀNGGIANG
Bà cựu giám
đốc sở bỏ
trốn và quy
định cấm
xuất cảnh
Theo luật sư, đã cấmđi khỏi nơi cư trú
thì phải cấm luôn xuất cảnh thì bị can
mới khó có cơ hội bỏ trốn.
đó mới đánh giá việc xuất cảnh này
có dấu hiệu bỏ trốn hay không mới
có quyết định cho phép hay không.
Tuy nhiên, thực tế thì không ai đi
nước ngoài mà có thông báo CQĐT
cả, vì thế mới có tình trạng “lọt sổ”
như hiện nay.
LS Nghĩa đánh giá: “Đây là quy
định gây khó cho CQĐT nếu ban
hành lệnh khi chưa có căn cứ đang
xuất cảnh và không có dấu hiệu bỏ
trốn thì có thể bị khiếu nại. Còn
nếu không ra lệnh mà trông chờ bị
can tự khai báo xuất cảnh dẫn đến
bị can bỏ trốn thì CQĐT phải chịu
trách nhiệm về nghiệp vụ”.
Vì vậy, theo LS Nghĩa, cần phải
có quy định, hướng dẫn cụ thể hơn.
Cạnh đó, ngoài thực hiện các biện
pháp như cấmđi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền để đảm bảo thì cần áp
dụng lệnh tạm hoãn xuất cảnh đối
với họ (trừ trường hợp đặc biệt cần
xuất cảnh để chữa bệnh hiểm nghèo
mà Việt Nam chưa đủ trình độ).•
Các lĩnh vực phi hình sự đều quy định
Quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và thi hành án, cơ quan
tiến hành tố tụng và thi hành án có thể thực hiện một hoặc nhiều biện
pháp ngăn chặn. Trong các biện pháp này có tạm hoãn hoặc cấm xuất
cảnh được quy định tại các điều 109, 1244 BLTTHS 2015; các điều 114,
128 BLTTDS 2015 và Điều 21 Nghị định 136/2007 của Chính phủ về xuất
nhập cảnh của công dân Việt Nam. Theo đó, một trong những trường
hợp công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh là đang có
nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự; đang có nghĩa vụ chấp hành bản
án dân sự, kinh tế…
LS
NGUYỄN HOÀI NGHĨA
,
Đoàn LS TP.HCM
Vũ “nhôm” từng bỏ
trốn và bị truy nã, đầu
năm 2018, lực lượng
chức năng của Việt
Nam đã đưa được Vũ từ
Singapore về để tiếp tục
điều tra.
Cấmxuất cảnh: Chỗ siết, chỗ buông
(tiếp theo trang1)
Tại Điều 114 BLTTDS quy
định về các biện pháp khẩn
cấp tạm thời, trong đó có biện
pháp: Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ. Biện
pháp này được áp dụng nếu có căn cứ cho thấy việc giải
quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ của họ đối với Nhà
nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác và việc xuất cảnh
của họ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác hoặc để đảm bảo việc thi hành án.
Trong khi tại Điều 109 BLTTHS quy định về các biện
pháp ngăn chặn thì lại khác. Cụ thể, điều luật quy định:
Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì cơ quan, người có
thẩm quyền tiên hanh tố tụng trong phạm vi thẩm quyền
của mình có thể áp dụng cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn
xuất cảnh. Cần lưu ý rằng biện pháp cấm đi khởi nơi cư
trú (Điều 123 BLTTHS 2015) và tạm hoãn xuất cảnh khi
có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ
trốn (Điều 124 BLTTHS 2015) là hai biện pháp áp dụng
độc lập với nhau.
Dễ dàng nhận thấy rằng tại hai điều luật của hai
BLTTDS và BLTTHS đã có sự khác nhau về cách sử dụng
các thuật ngữ pháp lý. Theo đó, BLTTDS sử dụng thuật
ngữ “cấm xuất cảnh” và BLTTHS thì sử dụng “tạm hoãn
xuất cảnh”. Từ việc sử dụng thuật ngữ có sự khác biệt của
hai bộ luật cho thấy tính chất, mức độ sẽ ảnh hưởng đến
đối tượng tác động cũng khác nhau.
Đối với biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, có thể áp dụng
đối với những người sau đây khi có căn cứ xác định việc
xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn: Người bị tố giác,
ngươi bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có
đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu
hủy chứng cứ; bị can, bị cáo.
Trong BLTTDS quy định “cấm xuất cảnh đối với với
người có nghĩa vụ” nhiều lúc trên thực tế lại thực sự chưa
cần thiết, có thể bị lạm dụng. Chẳng hạn có trường hợp
lãnh đạo của một doanh nghiệp có nhiều tài sản nhưng
khi bị kiện ra tòa, nguyên đơn đề nghị tòa áp dụng biện
pháp ngăn chặn là cấm xuất cảnh. Tài sản ở Việt Nam của
họ đôi khi còn nhiều so với số tài sản bị kiện và dư sức để
đảm bảo thi hành án (nếu có). Nhưng họ phải đi gặp gỡ
các đối tác ở nước ngoài để hợp tác làm ăn thì bị vướng
lệnh cấm xuất cảnh, như vậy là không hợp lý. Việc cấm
xuất cảnh này vô hình trung ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sự phát triển làm ăn của doanh nghiệp chỉ vì lệnh cấm
xuất cảnh trên quá mức cần thiết.
Chúng ta có thể thấy còn nhiều bất cập trong các quy
định của pháp luật và ngay cả trong việc áp dụng pháp luật
vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau của những người tiến
hành tố tụng dẫn đến nhiều hậu quả pháp lý khác nhau.
Luật sư - TS
NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH
,
Đoàn Luật sư TP.HCM
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook