Xuan-2020 - page 91

45
N
gười Quảng Nam dù
là dân chữ nghĩa hay
nhà nông cũng đều
ưa lý sự, gặp chuyện
chi cũng cãi hoặc có
ý kiến khác. Từ đó hình thành
một cốt cách khiến người ta
nghĩ tốt về nó cũng nhiều
nhưng nghĩ xấu cũng không
ít: “Quảng Nam hay cãi”.
Cãi để… đổi mới
Đã có nhiều lý giải về hiện
tượng hay cãi của người
Quảng Nam. Có ý kiến cho
rằng nó xuất phát từ chuyện
hai học giả Quảng Nam là
Phan Khôi và Huỳnh Thúc
Kháng (cùng nhà Nho Ngô
Đức Kế) công kích ông
Phạm Quỳnh - chủ nhiệm
báo
Nam Phong
- từ năm
1924 đến năm 1930, sau
khi ông chủ báo họ Phạm
tổ chức đêm suy tôn
Truyện
Kiều
tại hội quán Khai Trí
Tiến Đức ở Hà Nội vào
năm 1924. Trong đêm đó,
ông Quỳnh diễn thuyết ca
ngợi
Truyện Kiều
là “quốc
hoa, quốc hồn, quốc túy”.
Bị “đánh” rát, ông Quỳnh
chỉ im lặng. Sau khi rời
Hà Nội vào Sài Gòn, Phan
Khôi khơi lại chuyện cũ,
mạnh miệng mắng sự phớt
lờ này là “học phiệt”:
“Tôi
chẳng nói gần nói xa chi hết;
tôi nói ngay rằng hạng người
học phiệt ở ta chẳng bao lăm
người, mà Phạm Quỳnh tiên
sinh là một”
(
Phụ Nữ Tân
Văn
, Sài Gòn, 1930).
Rồi chính hai nhà báo trứ
danh người Quảng Nam này
khoảng 10 năm sau lại đăng
đàn cãi nhau về phong trào
Thơ mới. Phan Khôi sáng tác
bài “Tình già”, khởi xướng
trào lưu thơ mới, chê thơ cũ
“bó buộc và làm mất cả sanh
thú”
; ngược lại, nhà Nho chí
sĩ họ Huỳnh thì mạt sát Phan
Khôi. Cuộc bút chiến của hai
cây viết đất Quảng diễn ra trên
nhiều tờ báo, tập trung sự chú
ý lớn của giới học thuật từ
những năm 1941 trở đi. Đây
là một căn cớ để lý giải vì sao
“Quảng Nam hay cãi”.
Ý kiến khác dựa vào chính
sử, được cho là lý giải xác
đáng hơn. Cụ thể, nhiều
bản của
Đại Nam nhất thống
chí
triều Nguyễn đúc kết các
đặc tính của người Quảng
qua thực tế. Ví dụ, bản in
vào triều vua Duy Tân đánh
giá: 
“… sĩ phu có khí tiết cứng
cỏi bạo nói, nhưng vì thổ lực
không hậu mà thế nước chảy
gấp nên tính người hay nóng
nảy, ít trầm tính, duy có người
nào có học vấn uyên thâm mới
không bị phong khí ràng buộc”
.
Phải chăng những đúc kết ấy
chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Phong trào Duy Tân (1906-
1908) do chí sĩ đất Quảng
Nam Phan Châu Trinh khởi
xướng, trong đó có cuộc đấu
tranh đòi giảm sưu thuế ở
Trung Kỳ (1908) làm rúng
động chính phủ bảo hộ
(Pháp) và chính phủ bù nhìn
Nam triều lúc bấy giờ?
Khởi nguồn từ Đại Lộc
(Quảng Nam), những cuộc
tranh luận nảy lửa giữa người
dân xứ Quảng với các quan
Tây và tri phủ, đề đốc tay
sai người Việt… được nhiều
chứng nhân - trong đó có cả
người Pháp - ghi chép, kể lại
trong một số tài liệu, rất thú
vị. Phong trào này được xem
là một cuộc dân biến lịch sử,
lan ra 10 tỉnh, từ Bình Thuận
đến Thanh Hóa, dù bị người
Pháp điều binh đàn áp đẫm
máu, nhiều chí sĩ bị hành
quyết và rất đông người dân
bị tra khảo song chẳng thể
khuất phục ý chí sắt đá của
con người xứ Quảng: không
chịu im lặng trước bất công,
không cúi đầu trước bạo
quyền; phải lên tiếng đấu
tranh, phải hành động đòi lại
công bằng.
Cái sự “cãi” ấy chẳng phải
cãi chày cãi cối hay lý sự cùn
mà rất đáng trọng. Ngẫm suy,
nó chỉ nhằm mục đích dân
chủ và đổi mới. Cãi mới đem
lại sự dân chủ. Có “đấu” thì
mới làm nên cuộc duy tân, cải
cách. Giữa bối cảnh đất nước
tối tăm vì bị đô hộ, người dân
lầm than dưới ách thực dân,
Phong trào Duy Tân của cụ
Phan Tây Hồ hướng tới hiện
thực hóa những mục tiêu cao
cả: “Khai dân trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh”. Mở mang
dân trí, xây dựng xã hội dân
chủ để tiến tới tự cường rồi tự
chủ, độc lập, ấm no, há chẳng
phải là tư duy đổi mới quá sâu
sắc hay sao?
Tư tưởng thời đại, sống mãi
Trong huyết quản của người
Quảng Nam, tinh thần phản
biện và tranh đấu luôn tuôn
chảy. Nó được thể hiện bằng
nhiều cách và chắc chắn có sự
ảnh hưởng lẫn nhau, truyền
thừa cho nhau: thế hệ sau theo
thế hệ trước, con cháu học
hỏi ông cha, học trò nối bước
người thầy.
Tiêu biểu của sự truyền
thừa này là hai tên tuổi lừng
lẫy cùng quê Điện Bàn:
Phạm Phú Thứ (1821-1882)
và Hoàng Tụy (1927-2019).
Dẫu sống cách nhau cả thế kỷ,
thời cuộc cũng rất khác nhau
nhưng hai ông có điểm chung:
tài giỏi, thẳng thắn, yêu nước.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất
1862 với nhiều điều khoản
thất thế cho triều Nguyễn,
năm 1863 vua Tự Đức phái
đại thần Phan Thanh Giản làm
chánh sứ sang Pháp xin chuộc
lại ba tỉnh miền Đông Nam
Kỳ. Phạm Phú Thứ được cử
làm phó sứ đi cùng. Ông sang
trời Tây không chỉ để thương
lượng mà còn chủ động tìm
hiểu, học hỏi, ghi chép rất
nhiều thứ tiến bộ của họ.
Năm 1864, sứ bộ về nước,
Phạm Phú Thứ soạn và dâng
lên nhà vua biểu tấu, thúc
giục sớm cải cách, học tập và
phát triển công nghiệp theo
cách thức của Pháp và Y Pha
Nho (Tây Ban Nha). Hai
cuốn “Tây hành nhật ký” và
“Tây phù thi thảo” ông trình
cho vua Tự Đức trong đó ghi
chép những điều mắt thấy tai
nghe về cách làm tiến bộ và
thành quả tân thời của người
Âu, khuyến nghị nước Nam ta
làm theo.
Tư tưởng và tầm nhìn của
Phạm Phú Thứ đã vượt xa
tri thức thời đại mà ông đang
sống rồi! Chưa cần phải chờ
đến khi sang Tây Âu, lúc làm
án sát Thanh Hóa, nhà Nho
họ Phạm đã kiến nghị vua
đóng tàu bọc đồng để phục vụ
vận tải thủy và giao thương.
Tàu đồng Thụy Nhạc ra đời
là nhờ đầu óc Phạm Phú Thứ!
Tròn 140 năm sau kể từ
bản trình tấu 1864, một hậu
bối Quảng Nam của Phạm
Phú Thứ là Hoàng Tụy cũng
làm dậy sóng giới trí thức với
bài viết thẳng thừng về giáo
dục (công bố năm 2004).
Lúc này, giáo dục và đào tạo
nước nhà đối mặt hàng loạt
vấn đề nhức nhối, cấp thiết
phải đổi mới. Theo yêu cầu
của Quốc hội, Chính phủ
chuẩn bị một báo cáo đặc
biệt về giáo dục đào tạo. Báo
cáo này được dự thảo nhiều
lần, hầu hết các nội dung và
luận điểm trong dự thảo báo
cáo đều bị Giáo sư Hoàng
Tụy phản biện, bác bỏ. Theo
ông, ngành giáo dục chưa
dám nhìn thẳng vào thực tế
“lay lắt”, thiếu hẳn tư duy
đổi mới, sáng tạo và đối diện
nguy cơ khủng hoảng kéo
dài.
Và 5 năm sau đó (2009),
ông tiếp tục có bài viết rất dữ
dội
“Giáo dục: Xin cho tôi nói
thẳng”
(1)
, chỉ rõ thực trạng yếu
kém, cảnh báo nhiều vấn đề
và đưa ra khuyến nghị rất cụ
thể. Ông nêu “thẳng như ruột
ngựa”:
“Chỉ những ai quá vô
tâm với tình hình đất nước mới có
thể yên lòng trước tình hình giáo
dục hiện nay”
(2)
.
Năm 2019 vừa khép lại,
chúng ta chia tay cha đẻ lý
thuyết toán học “Tối ưu toàn
cục”. Người cháu của Tổng
đốc Hà Nội Hoàng Diệu nối
bước tiền nhân đồng hương
Phạm Phú Thứ về bên kia thế
giới nhưng những “tượng đài
hay cãi” đáng kính ấy như vẫn
ở lại với chúng ta, tiếp tục được
thắp lửa bởi đòi hỏi của thực tế
đất nước về công bằng, dân chủ
và đổi mới luôn còn đó, mãi
thôi thúc thế hệ hôm nay.
Vậy là đã rõ, “Quảng Nam
hay cãi” không còn thuần túy
là một cốt cách vùng miền,
mà cao hơn thế, cãi chính là
tranh luận, là phản biện với
khát vọng dân chủ, khát vọng
đổi mới!•
(1) và (2): Xin được nói thẳng
(Nhà xuất bản Thế giới, 2019,
tr. 123 và tr. 213).
Cái sự “cãi” ấy chẳng phải
cãi chày cãi cối hay lý sự cùn
mà rất đáng trọng,
cốt để tìm đến chân lý.
Họ cãi không vì
hơn thua hay cho
sướng miệng mà là
vì muốn dân chủ,
mong đổi mới.
TRÀ KIỆU TÂY
“QuảngNam
Giảimã
hay
cãi
Chuyện
bốn
phương
1...,81,82,83,84,85,86,87,88,89,90 92,93,94,95,96,97,98,99,100,101,...104
Powered by FlippingBook