6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứBảy8-6-2024
đã cấp cho ông U và công nhận
QSDĐ cho bà.
Ông U thì cho rằng cha mẹ ông
đã tặng cho ông phần đất này, ông
đã kê khai và được cấp giấy chứng
nhận. Khi ông đi nơi khác sinh sống,
ông để lại căn nhà cho bà G mượn
ở và canh tác trên đất. Ông U phản
tố, đề nghị tòa buộc bà G trả lại đất
và nhà cho ông.
Xử sơ thẩm hồi tháng 4-2019,
TAND tỉnh Cà Mau đã căn cứ vào
nội dung của di chúc, biên bản họp
gia đình, lời khai của các con và quá
trình quản lý, sử dụng đất liên tục từ
năm 1998 của bà G cũng như việc
kê khai, đăng ký đất, chấp nhận yêu
cầu của bà G, hủy giấy chứng nhận
đã cấp cho ông U...
Xử phúc thẩm, TANDCấp cao tại
TP.HCMkhông chấp nhận kháng cáo
của ông U, giữ nguyên án sơ thẩm.
Sau đó, VKSND Tối cao kháng
nghị đề nghị hủy cả hai bản án để
xét xử sơ thẩm lại nhưng Hội đồng
Thẩm phán TAND Tối cao không
chấp nhận.
BLDS năm 1995 và BLDS năm
2005 yêu cầu “di chúc phải ghi rõ
di sản để lại và nơi có di sản”. Ở
đây, nội dung di chúc có xác định
tứ cận nhưng không thể hiện diện
tích đất cụ thể, chưa thực sự “rõ”
về di sản. Dù vậy, vẫn có thể xác
định được di sản thông qua tứ cận
(không có tranh chấp về tứ cận).
Do đó, án lệ công nhận QSDĐ
cho người được hưởng theo di
chúc là phương án chấp nhận được.
Nếu không công nhận thì sẽ không
tôn trọng ý chí của người để lại
di chúc, không bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người được chỉ
định trong di chúc.
Hai vấn đề quan trọng
của án lệ
Trong quyết định gốc tạo ra Án
lệ số 72, Hội đồng giám đốc thẩm
không viện dẫn quy định nào, BLDS
nào nhưng khi xây dựng Án lệ số
72, Hội đồng Thẩm phán có nêu
một số quy định của BLDS năm
2015. Điều này cho thấy Hội đồng
Thẩm phán muốn áp dụng đường
lối trong Án lệ số 72 cho cả trường
hợp di chúc chịu sự điều chỉnh của
BLDS năm 2015.
Tuy nhiên, ở Án lệ số 72, cách
thể hiện đường lối giải quyết trong
quyết định gốc (đặc biệt là trong
phần nội dung án lệ) và trong
phần khái quát nội dung án lệ có
sự khác biệt. Điều này có thể dẫn
tới những khó khăn trong việc áp
dụng án lệ.
Trong phần nội dung án lệ (trích
từ quyết định gốc), việc công nhận
QSDĐ cho người được nêu trong di
chúc dựa vào năm yếu tố: Nội dung
di chúc; biên bản họp gia đình; lời
khai của các con; quá trình quản
lý, sử dụng đất liên tục; không có
tranh chấp về tứ cận.
Thế nhưng trong phần khái quát
nội dung án lệ lại chỉ cần yếu tố di
GS-TSĐỖVĂNĐẠI,
TrườngĐHLuậtTP.HCM
T
AND Tối cao vừa công bố hai
án lệ mới, trong đó có Án lệ
số 72/2024/AL về xác định di
sản thừa kế là quyền sử dụng đất
(QSDĐ) trong trường hợp di chúc
không thể hiện diện tích đất cụ thể.
Nguồn án lệ dựa trên Quyết định
giámđốc thẩm số 60/2022/DS-GĐT
ngày 19-12-2022 củaHội đồngThẩm
phán TAND Tối cao.
Khi di chúc chưa thực sự
rõ về di sản thừa kế
Theo nội dung vụ án tranh chấp
thừa kế QSDĐ giữa nguyên đơn
là bà G với bị đơn là ông U thì khi
còn sống, cha mẹ của bà G đã lập
di chúc cho bà phần đất tại huyện
C (nay là huyện P, tỉnh Cà Mau). Di
chúc không ghi diện tích đất cụ thể
(chỉ ghi là 15 công tầm lớn) nhưng
có nêu tứ cận của khu đất.
Sau khi cha mẹ của bà G mất,
bà vẫn quản lý và sử dụng phần
đất này. Tuy nhiên, ông U đã giả
mạo chữ ký của mẹ bà G để làm
giấy chứng nhận. Vì vậy, bà khởi
kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận
Di chúc chỉ nêu tứ cậnmà không nêu diện tích đất cụ thể. Ảnhminh họa: NGUYỄNHIỀN
Chuyện “bếp
núc” quanh
Án lệ số 72
Án lệ số 72 ghi nhận quyền sử dụng đất
cho người được chỉ định trong di chúc
dù di chúc chỉ nêu tứ cậnmà không nêu
diện tích đất cụ thể.
chúc nêu tứ cận và không có tranh
chấp về tứ cận mà không quan tâm
tới ba yếu tố còn lại.
Phải chăng chỉ cần căn cứ vào nội
dung di chúc (nêu tứ cận) và không
có tranh chấp về tứ cận là đủ để áp
dụng Án lệ số 72? Đây là điểm chưa
rõ ràng của án lệ và có thể gây tranh
cãi trong quá trình áp dụng.
Nếu có cơ sở xác định được ý chí
của người lập di chúc, có lẽ chỉ cần
tình huống có yếu tố tương tự những
thông tin trong phần khái quát nội
dung án lệ (chỉ cần hai yếu tố mà
không cần năm yếu tố).
Cạnh đó, trong phần nội dung án
lệ, quyết định gốc không bàn về
tính “hợp pháp” của di chúc nhưng
trong phần khái quát nội dung án lệ
có nêu “di chúc hợp pháp”. Ở đây,
trước khi áp dụng Án lệ số 72, có
lẽ cần xem xét di chúc có hợp pháp
hay không và chỉ áp dụng đường lối
trong án lệ này sau khi xác định di
chúc là hợp pháp.
Một điểm đáng lưu ý là cần đọc
kỹ nội dung án lệ và khái quát nội
dung án lệ, không nên chỉ đọc tiêu
đề của án lệ. Bởi Án lệ số 72 có
tiêu đề là “Xác định di sản thừa
kế là QSDĐ trong trường hợp di
chúc không thể hiện diện tích đất
cụ thể”. Tiêu đề như vậy có thể
dẫn tới cách hiểu là án lệ này chỉ
đề cập tới việc xác định di sản
thừa kế.
Trong khi nội dung án lệ và khái
quát nội dung án lệ không chỉ xác
định di sản thừa kế (là QSDĐ chỉ
được nêu tứ cận trong di chúc, không
nêu diện tích cụ thể) mà còn xem
xét công nhận QSDĐ cho người
được nêu trong di chúc.•
Khái quát nội dung án lệ
Mặc dù di chúc của cha mẹ bà G không ghi diện tích đất cụ thể, chỉ ghi
là 15 công tầm lớn nhưng có nêu tứ cận của khu đất. Như vậy, phần đất
bà G được cha mẹ cho là đất có khuôn viên, xung quanh tiếp giáp với
kênh và đất của các hộ dân khác, hiện nay không có tranh chấp về tứ cận...
Khi giải quyết vụ án, tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm căn cứ vào
nội dung của di chúc, biên bản họp gia đình, lời khai của các con và quá
trình quản lý, sử dụng đất liên tục từ năm 1998 của bà G cũng như việc
kê khai, đăng ký đất. Từ đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G, công
nhận bà G được hưởng thừa kế đối với phần đất là di sản của cha mẹ
bà là có căn cứ.
Phải chăng chỉ cần căn
cứ vào nội dung di chúc
(nêu tứ cận) và không có
tranh chấp về tứ cận là
đủ để áp dụng Án lệ số
72? Đây là điểm chưa rõ
ràng của án lệ và có thể
gây tranh cãi trong quá
trình áp dụng.
Tuyên án tử hình bị cáo Đoàn Thiên Long trong vụ nổ súng ở TP Phú Quốc
Sáng 7-6, tại tỉnh Kiên Giang, TAND Cấp cao tại
TP.HCM đã tuyên án phúc thẩm vụ giải quyết mâu thuẫn
bằng súng ở TP Phú Quốc.
HĐXX không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt của 16 bị cáo, chấp nhận một phần kháng nghị của
viện trưởng VKSND tỉnh Kiên Giang (theo hướng tăng
nặng hình phạt), sửa một phần bản án sơ thẩm của TAND
tỉnh Kiên Giang.
HĐXX tuyên phạt bị cáo Đoàn Thiên Long mức án tử
hình về tội giết người (sơ thẩm tuyên phạt tù chung thân),
12 năm tù về tội tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép
vũ khí quân dụng; tổng hợp hình phạt chung là tử hình.
Nguyễn Văn Thái (Thái bus) và PhạmAnh Hiếu bị tuyên
phạt tù chung thân về tội giết người. Nguyễn Văn Quá lãnh
án 18 năm tù về tội giết người và tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng trái phép vũ khí quân dụng. Các bị cáo còn lại lãnh án
từ năm năm sáu tháng tù đến 16 năm tù về tội giết người.
Theo cáo trạng, nhóm của Thái nhận bảo kê đo đạc đất
tranh chấp cho một người dân ở TP Phú Quốc.
Ngày 27-10-2022, Thái rủ khoảng 52 đối tượng giang hồ
chuyên bảo kê giành đất, giữ đất tranh chấp… tập hợp lại
nhà của Bùi Minh Trung (Trung Cà Mau) rồi đi trên nhiều ô
tô đến khu vực đất tranh chấp. Tại đây, các bị cáo đã xảy ra
cự cãi, xô xát với nhóm của Nguyễn Văn Trường.
Trong lúc hỗn chiến, Quá và Long dẫn đầu rượt đuổi
nhóm của Trường gây náo loạn khu vực. Long dùng súng
hoa cải bắn ba phát vào nhóm của Trường làm hai người
tử vong, sáu người khác bị thương.
CHÂU ANH
Tiêu điểm
Án lệ số 72 được thông qua theo
thủ tục rút gọn, tức hướng giải quyết
đượcHội đồnggiámđốc thẩmđề xuất
thành án lệ trong quá trình giải quyết
vụ việc và được Hội đồngThẩmphán
thông qua mà không cần xin ý kiến
của công chúng, không cần tham
khảo ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ.
Án lệ này có ưu điểm là công nhận
QSDĐ có tranh chấp là di sản thừa kế
và thừa nhận QSDĐ tồn tại trên thực
tế cho người được chỉ định trong di
chúc mặc dù di chúc chỉ nêu tứ cận
mà không nêu diện tích đất cụ thể.
Hướng này tôn trọng ý chí của người
quá cố được thể hiện trong di chúc
và bảo vệ quyền lợi của người được
chỉ định trong di chúc.
Cácbịcáotạitòa.Ảnh:VĂNVŨ