162-2020 - page 6

6
Pháp luật
&
cuộc sống -
ThứHai 20-7-2020
Đối với chị Y., khi chung
sống với ông T. nhưng
không biết việc ông này
đã có vợ nên không đủ
căn cứ để truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Bị cáo đã có vợ con hợp pháp nhưng vẫn
chung sống như vợ chồng với một phụ nữ
khác và có con riêng, vì thế người vợ tố cáo,
yêu cầu xử lý hình sự.
Lãnh án tù
vì đã có vợ
vẫn… cặp bồ
HOÀNG ANH
T
AND quận Gò Vấp (TP.HCM)
vừa xử sơ thẩm vụ án hình sự
tội vi phạm chế độ một vợ một
chồng. Bị cáo trong vụ án là ông
VT (35 tuổi, trú quận Tân Bình,
làm trong doanh nghiệp), bị truy
tố theo khoản 1 Điều 182 BLHS
2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đây là tội danh mới chỉ được
quy định trong BLHS 2015 và
cũng là tội trên thực tế hiếm khi
cơ quan tố tụng các địa phương
khởi tố, truy tố và xét xử.
Bị vợ tố cáo cùng
chứng cứ là hình ảnh
Theo hồ sơ, ông T. kết hôn cùng
chị NTK từ năm 2012 và chung
sống tại quận Tân Bình, có một
con riêng sinh năm 2015. Trong
thời gian chung sống, giữa T. và vợ
xảy ra nhiều mâu thuẫn dẫn tới hai
người luôn có khoảng cách trong
tình cảm và quan hệ vợ chồng.
Đến năm 2014, ông T. nảy sinh
tình cảm với một phụ nữ tên PY
(sống tại quận Gò Vấp) nhưng
giấu chị Y. chuyện mình đã có gia
đình. Tới đầu năm 2015, khi chị
Y. mang thai thì ông T. mới thú
nhận đã có vợ, chưa ly hôn.
Bị chị Y. yêu cầu chia tay và nói
sẽ phá thai, ông T. không đồng ý
và hứa sẽ lo cho hai mẹ con chị Y.
Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết
hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang
có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cảnh
cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến một năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm
dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ một chồng mà
vẫn duy trì quan hệ đó.
(Trích Điều 182 BLHS 2015; sửa đổi năm 2017)
có cuộc sống chu đáo. Cuối năm
2014, chị Y. sinh con và trong
khoảng thời gian hai năm sau đó
ông T. vừa sống với vợ, vừa sống
chung như vợ chồng với chị Y.
Đến tháng 7-2017, chị K. là vợ
của bị cáo phát hiện chồng mình
có bồ và con riêng nên yêu cầu
ông T. chấm dứt quan hệ với chị
Y. Do thất vọng về chồng nên sau
đó chị K. đã bỏ về quê ở miền Tây
sinh sống. Từ thời gian này, ông
T. không những không chấm dứt
mối quan hệ sai trái mà còn thường
xuyên đến ở với chị Y.
Biết chồng không thay đổi, chị
K. làm đơn tố cáo ra công an yêu
cầu xử lý hình sự ông T. theo quy
định của pháp luật. Kèm theo đơn,
chị K. có giao nộp một USB chứa
những hình ảnh liên quan đến hành
vi của ông T. Đồng thời, chị K.
cũng nộp đơn khởi kiện dân sự yêu
cầu ly hôn với ông T. tại TAND
quận Tân Bình. Cuối năm 2019,
tòa quận này đã ra quyết định
công nhận sự thuận tình ly hôn
giữa hai người.
Bị cáo thành khẩn,
hối lỗi
Đầu năm 2012, Cơ quan CSĐT
Công an quận Gò Vấp đã khởi tố
vụ án, khởi tố bị can đối với ông T.
và được VKS cùng cấp phê chuẩn.
Cáo trạng của VKSND quận
Gò Vấp sau đó xác định: Mặc dù
đã kết hôn hợp pháp với chị K.
nhưng ông T. vẫn sống chung như
vợ chồng với chị Y. và có một con
chung dẫn đến hôn nhân đổ vỡ.
Hành vi phạm tội của ông T. đã
xâm phạm đến nguyên tắc hôn nhân
một vợ một chồng được quy định
trong Hiến pháp và Luật Hôn nhân
và Gia đình, ảnh hưởng đến trật
tự xã hội, cần phải xử lý nghiêm.
Đối với chị Y., khi chung sống
với ông T. chị không biết việc ông
này đã có vợ nên không đủ căn cứ
để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cáo trạng nêu: “Quá trình điều
tra, ông T. có thái độ khai báo
thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm
tội thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng, do đó được áp dụng tình
tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản
1 Điều 51 BLHS”.
Tại phiên xử sơ thẩm, bị cáo T.
lý giải chuyện chạy theo chị Y.
là do tình cảm vợ chồng có mâu
thuẫn và không được giải quyết
triệt để. Bị cáo thừa nhận đã gây
tổn thất tinh thần cho cả hai người
phụ nữ và bày tỏ sự hối lỗi.
Luật sư bào chữa cho bị cáo
không có mặt tại tòa nhưng gửi
bài bào chữa và thẩm phán chủ tọa
công bố công khai tại phiên tòa.
Theo đó, luật sư cho rằng hành
vi của bị cáo T. là trái quy định
pháp luật nhưng hiện nay ông T.
đã ly hôn với chị K. và có trách
nhiệm với con chung sau khi ly
hôn. Vì thế, luật sư đề nghị HĐXX
xem xét các tình tiết giảm nhẹ để
quyết định mức hình phạt nhẹ nhất
cho ông T.
Đại diện VKS giữ quyền công
tố tại tòa đề nghị HĐXX phạt bị
cáo mức án 10-12 tháng tù nhưng
cho hưởng án treo. Tuy nhiên, sau
khi nghị án, tòa tuyên phạt ông T.
một năm cải tạo không giam giữ,
giao cho địa phương nơi người
này ở quản lý.
Trao đổi với PV bên lề phiên
tòa, một cán bộ thường theo dõi
các phiên xét xử hình sự cho biết
đây là một án hiếm gặp. Hành vi
như ông T. đã thực hiện trên thực
tế xảy ra nhiều nhưng hiếm khi bị
xử lý hình sự, nhưng qua vụ án
này sẽ là bài học cho nhiều người.•
TAND tỉnh PhúYên vừamở phiên phúc thẩmxét xử bị cáo
TốngHữuTrung (SN1981, trú huyệnTuyAn, PhúYên) về tội
lừa đảo chiếmđoạt tài sản.
Xét thấy cấp sơ thẩmđiều tra, truy tố, xét xử chưa đầy đủ, có
thiếu sót mà cấp phúc thẩmkhông thể khắc phục được, HĐXXđã
hủy bản án sơ thẩmđể điều tra lại theo quy định của pháp luật.
Theo hồ sơ, năm2015, TrầnMinh Sơn không thực hiện khám
sức khỏe nghĩa vụ quân sự theo lệnh của Ban chỉ huyQuân sự
huyệnTuyAn. Do đó, ngày 1-8-2016, chủ tịchUBNDxãAn
Định, huyệnTuyAn đã ra quyết định xử phạt vi phạmhành chính
đối với Sơn số tiền 1,2 triệu đồng.
Sơn đến UBND xã nộp phạt, gặp Tống Hữu Trung là chỉ huy
trưởng Ban chỉ huy Quân sự xãAn Định. Trung nói nếu lần sau
Sơn tiếp tục trốn nữa thì sẽ bị phạt tù.
Nghe vậy, Sơn nhờ Trung giúp đỡ để không trúng tuyển nghĩa
vụ quân sự trong những năm tiếp theo. Trung nhận lời và thỏa
thuận Sơn phải đưa cho mình 15 triệu đồng để lo liệu việc này.
Chiều cùng ngày, Sơn chuyển tiền qua ATM cho Trung
3 triệu đồng. Đến ngày 4-8-2016, Sơn tiếp tục chuyển
cho Trung 12 triệu đồng. Sau khi nhận tiền, Trung không
thực hiện lời hứa và thực tế cũng không quen biết, không
nhờ ai giúp việc của Sơn.
Đến tháng 11-2016, Trần Minh Sơn tham gia khám sức
khỏe và trúng tuyển nghĩa vụ quân sự năm 2017. Trung
tiếp tục hứa hẹn với Sơn rằng lên đến đơn vị đóng quân,
Trung sẽ nhờ người giúp đỡ để Sơn được trả về.
Tháng 2-2017, Sơn nhập ngũ tại đơn vị ở Kon Tum
nhưng không thấy đơn vị trả về như Trung đã hứa. Biết
bị Trung lừa, ngày 11-3-2017, Sơn bỏ trốn khỏi đơn vị.
Sau khi đào ngũ, Sơn gọi điện thoại nói việc Trung
lừa lấy tiền cho ông Trần Đình Chi (cha của Sơn) biết và
bảo ông Chi tố cáo hành vi của Trung. Sau khi bị tố cáo,
Trung trả lại 15 triệu đồng cho ông Chi.
Ngày 28-2, TAND huyện Tuy An xử sơ thẩm đã áp
dụng khoản 1 Điều 139 BLHS 1999 và các tình tiết giảm
nhẹ, xử phạt Trung chín tháng tù. Trung kháng cáo xin
giảm hình phạt và hưởng án treo.
HĐXX phúc thẩm cho rằng cấp sơ thẩm đã khởi tố,
truy tố, xét xử đối với Trung về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật.
Tuy nhiên, xét bị cáo Trung có hành vi lợi dụng chức
vụ là chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Quân sự xã An Định để
lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có dấu hiệu phạm tội thuộc
trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo quy định
tại điểm d khoản 2 Điều 139 BLHS 1999, có khung hình
phạt tù 2-7 năm.
Cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử Trung theo khoản 1
Điều 139 BLHS năm 1999 (khung hình phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm) là không đúng với hành vi của bị cáo. Từ
đó, TAND tỉnh Phú Yên đã hủy bản án sơ thẩm để điều
tra lại theo quy định.
SÔNG BA
Chỉ huy trưởnggiúp trốnnghĩavụquân sựgiá15 triệuđồng
HĐXX phúc thẩm cho rằng cấp sơ thẩmđiều tra, truy tố, xét xử chưa đầy đủ nên quyết định hủy án để điều tra lại.
1,2,3,4,5 7,8,9,10,11,12,13,14,15,...16
Powered by FlippingBook