Xuan-2020 - page 57

33
T
hời buổi hiện đại, Tết của
người Tày tưởng chừng
cũng dần biến chuyển
giống với người Kinh,
nhưng thực chất nếu
“ngâm cứu” kỹ sẽ thấy những
điều khác biệt rõ rệt. Nhất là
phong cách ẩm thực, phong tục
tập quán và một số quan niệm
cũng rất… “bá đạo”.
Người Tày là phải ăn lòng thốt
Xuân về, bản của người Tày
cứ vui như… Tết. Vui hơn
nữa là người trong bản làm ăn
xa lúc này lục tục kéo về ăn
Tết, khiến cả bản cứ rôm rả,
rộn ràng như pháo ran.
Tục ăn lòng thốt của người Tày
giống như ăn tất niên của người
Kinh vậy. Khoảng 26 thángChạp
là mọi nhà chuẩn bị “khui” (mổ)
con heo nuôi từ giữa năm làm cỗ
đãi khách rồi. Nhà nào ít anh em,
họ hàng sẽ ăn chừng nửa con, nhà
nào đông hơn thì phải tính toán
việc ăn đụng (nhận thêm phần)
với nhà khác. Nói chung vẫn là
cái “tình làng nghĩa xóm” nên
việc ăn nửa con hay một con heo
cũng không quan trọng. Quan
trọng là nhân cái dịp cuối năm cả
họđược gặpnhau và cùng “khui”
heo ăn Tết. Vui là trên hết!
Nói là nhà “khui” heo
sống nhưng làm gì cũng phải
nhờ cậy anh em, họ hàng cả.
Phong tục này vốn có từ lâu
bởi đây là dịp để những người
trong họ gắn thêm tình đoàn
kết, có thời gian quây quần
bên nhau hàn huyên tâm sự.
Bởi vậy cho nên nhà nào càng
đông họ hàng tới càng thích.
Tỉ dụ như nhà tôi là phải đi
tranh mời trước chứ không
các cụ lại “bị” nhà khác mời
mất thì bớt cả cái vui.
Mà bản tôi có cái kiểu mời
ăn lòng thốt rất cá tính và sáng
tạo. Chỉ cần tận dụng cái “loa
miệng” là được rồi. Cứ như bố
tôi, mời họ hàng bằng cách ló
cái đầu qua khung cửa nhà rồi
hô lớn: “Thằng Cậu, mai mày
mang con dao sang giúp chúmổ
con lợn làm lòng thốt nhá. Nhớ
sang sớm để đun nước, làm cơm
cho sớm để mời các cụ”.
Nhưng gia chủ chỉ được dùng
“loa miệng” mời những người
nhỏ hơn thôi. Còn những
người lớn thì phải dùng cái
chân và sự cung kính để mời,
bởi người Tày có tâm niệm “ăn
có mời, làm có khiến; lời mời
cao hơn mâm cỗ” (vụ này cũng
giống người Kinh nè).
Ngày “khui” heo, cả nhà bắt
đầu tưng bừng, nhộn nhịp từ 5
giờ sáng. Người đun nước mổ
heo, người nấu xôi để cúng gia
tiên.Cácnamthanhniên tokhỏe,
vạm vỡ thì đã sẵn dây thừng,
dao…để tiến hành “khui” heo.
“Nhất thủ, nhì vĩ” là quan
niệm của người Tày, bởi ngay sau
khi “khui” heo thì đầu và đuôi
heo sẽ được mang lên bàn thờ
để làm lễ cúng gia tiên. Theo lời
các bậc cao niên, lễ cúng này là để
con cháu mời các cụ về ăn cơm
cuối năm với gia đình. Sau đó gia
đình mới được phép làm cỗ thết
đãi bà con, hàng xóm.
Còn vụ này mới vui nè, toàn
bộ lòng, tim, gan, tiết heo sẽ
được mang đi chế biến để làm
đồ ăn sáng. Đây là món ăn độc
nhất vô nhị của người Tày trong
dịp cuối năm. Món này gọi là
“phán sườn”, nó đặc biệt ở chỗ
gia vị chủ đạo là nghệ, gừng,
rượu và nội tạng heo. Món ăn
có vị cay nóng nhằm xua tan
cảm cúm, cái lạnh ở quê nhà.
Vụ ăn phán sườn cũng chất
muốn xỉu luôn, bởi ăn ngay
trên bếp chứ không bày ra bàn
đâu nha. Khi phán sườn được
nấu chín và vẫn còn sôi sùng
sục trên bếp cũng là lúc mọi
người mang tô, chén ra để
múc ăn luôn. Tất cả ngồi quây
quần bên bếp lửa vừa ăn vừa
nhỏ to tám chuyện trên trời
dưới đất. Sau đó lại mỗi người
một việc, người đi nhặt rau,
người đun nước pha trà, người
làm cơm, người ướp gia vị để
treo lên gác bếp…
Không thể thiếu mía tím
Từ 25 âm lịch, bản làng
người Tày đã bắt đầu nhộn
nhịp bởi mọi thứ chuẩn bị
cho Tết, lễ cúng gia tiên đều
được tự tay người trong nhà
làm. Tết người Tày không thể
thiếu bánh chưng, bánh tro,
đây là hai loại bánh để cúng
gia tiên trong những ngày Tết.
“Con gái Tày là phải biết làm
bánh chưng, biết gói bánh tro,
không ế chồng cả đời đó con
ạ!” - Những người lớn tuổi hay
dạy con cháu như vậy. Có vẻ sợ
“ế” nên con gái người Tày ai ai
cũng biết làm bánh từ các thế hệ
trước truyền bí kíp lại.
Vụ làmbánh tro của người Tày
cũng rất kỳ công. Từ tháng 10 âm
lịch, mọi người trong làng bắt đầu
vào rừng chặt cành coong mạ để
đốt lấy tro hoặc đốt một số loại
thân cây khác như cây vừng, cây
đỗ xanh, vỏ chuối... Sau đómang
tro đốt được nấu với nước, rồi
lấy nước đó đem ngâm với gạo
qua đêm và lấy gạo ấy gói bánh.
Bánh tro được chấm với mật mía
mà trước đó các hộ dân đã kéo lấy
mật để dành dùng trong dịp Tết.
Nhưng có cái khác lạ, người
Tày ở phía Bắc nhưng bánh
chưng của người Tày lại được
gói như bánh tét ở miền Nam.
Chỉ có điều nhân được làm
bằng thịt heo thái miếng trộn
với đậu xanh và cho thêm
chút rượu, mục đích là để lâu
cũng không bị thiu.
Song song với việc làm
bánh, quần áo gia tiên cũng
được các gia đình người Tày
chuẩn bị từ khá sớm. Người
Tày quan niệm dịp Tết con
cháu có quần áo mới thì các
cụ cũng phải có. Vì thế, ngay
từ 20 tháng Chạp, người lớn
trong gia đình đã lựa ra những
tờ giấy xanh đỏ đẹp mắt để
tự tay cắt thành những bộ
quần áo dâng lên các cụ. Nói
chung, mọi người cố gắng
khéo léo, tỉ mỉ cắt đồ để các
cụ có được những bộ quần áo
đẹp, lại “hợp thời trang” với
các cụ nữa. Làm quần áo xong
thì cần gập thêm nhiều vàng,
bạc để các cụ có tiền “rủng
rỉnh” tiêu xài trong cả năm.
Chiều 30, nhà nào cũng quét
dọn bàn thờ, tỉa chân hương,
“khui” thêm một con gà thiến
làm mâm cơm cúng các cụ.
Nhưng khác biệt là bàn thờ
được trang trí hai bên bằng
những cây mía, một cành hoa
đào, một đĩa đủ các loại quả
ngọt, chai rượu.
Thờ cây mía tím là quan niệm
rất thiêng liêng và có phần “bá
đạo” của người Tày. Theo
quan niệm từ ngàn xưa, đây là
vật “bất ly thân” của các cụ đã
mất khi trở về ăn Tết cùng con
cháu. Khi hết Tết, lúc các cụ ra
đi thì cây mía tím trở thành “vật
đa năng” vì đảm nhiệm nhiều
chức năng phi thường: Nào
là để các cụ gồng gánh những
thứ con cháu thờ cúng mang
đi, nào là khi gặp khúc sông thì
dùng làm cầu để đi qua sông…
Đặc biệt, khi gặp “cô hồn các
đảng” muốn cướp bóc đồ đạc
thì các cụ dùng mía tím làm vũ
khí chiến đấu. Cho nên các bậc
cao niên luôn dặn dò con cháu:
“Tết có thể thiếu nhiều thứ
nhưng nhất định không được
thiếu cây mía tím”.
Bốn, năm giờ sáng mồng một
Tết, người mẹ thường làm phần
bánh ngọt như chè lam, bỏng
nếp ép thành nắm đặt lên bàn
thờ tổ tiên. Sau đó đun một nồi
nước có lá bưởi (gọi là nước
nàng tiên) để dâng lên bàn thờ.
Sau đó mọi người trong gia
đình mới dùng nước đó để rửa
mặt, súc miệng, sau đó bắt đầu
chính thức ăn Tết…
* * *
Dù cuộc sống hiện nay có
nhiều thay đổi, song người
Tày vẫn lưu giữ được nhiều
phong tục, tập quán, văn hóa
truyền thống riêng. Tôi thầm
ước văn hóa của dân tộc mình
đừng bao giờ bị “phố hóa”, bị
mai một theo thời gian. Bởi
với chúng tôi, cái Tết giản dị
mà ấm cúng trên rẻo cao có
ý nghĩa quan trọng đến mức
chẳng gì thay thế được.•
Có cái khác lạ, người Tày ở
phía Bắc nhưng bánh chưng
của người Tày lại được gói như
bánh tét ở miền Nam.
Sau 25 tháng Chạp,
người dân tộc Tày
ở Thái Nguyên đều
gác lại công việc
đồng áng để chuẩn
bị cho cái Tết sum
vầy, đầm ấm.
KỲ DUYÊN
củangười
Tày
Lạ lẫm
trên rẻocao
Tết
1...,47,48,49,50,51,52,53,54,55,56 58,59,60,61,62,63,64,65,66,67,...104
Powered by FlippingBook