31
XuânKỷHợi 2019
T
hị trấn Ngan Dừa,
huyện Hồng Dân,
tỉnh Bạc Liêu
không chỉ nổi tiếng
bởi những địa danh
ấn tượng một thời hay món ăn
đặc sản bánh tằm Ngan Dừa.
Ngan Dừa còn nổi tiếng bởi
đã từng tồn tại một khu chợ -
chợ nổi Ngan Dừa.
Chợ nổi chỉ còn trong ký ức
Mới chừng chục năm trước,
một nhà văn bạn tôi như bị “bỏ
bùa” bởi hình ảnh chợ nổi Ngan
Dừa với các nàng áo xanh, áo
đỏ dưới ghe xuồng, với cảnh
chợ nông sản buổi sớm nắng rọi
như dát vàng, với tiếng í ới gọi
nhau trên các ghe hàng… Anh
thường ngồi hàng giờ bên quán
cà phê nhỏ ven chợ, kêu môt ly
“xây chừng” nóng (cà phê đen)
rồi thả hồn vào cảnh chợ với
bao nhiêu xúc cảm.
Thế rồi bây giờ trở lại, anh
cảm thấy hụt hẫng, chơi vơi
khi bỗng chốc mất đi một
khúc sông, một phiên chợ
lòng. Cảnh trên bến dưới
thuyền giờ đã trở thành ký ức,
thành nỗi tiếc nuối của không
chỉ người dân của huyện mà
còn cho bất cứ ai đã từng biết
đến chợ Ngan Dừa xưa.
Nhớ lại thời điểm năm 2005,
lúc hay tin chợ nổi Ngan Dừa
sẽ bị san lấp để làm đường, làm
công viên, làm khu trung tâm
thương mại, trong tôi như có gì
mất mát. Phải là những người
đã từng được tận mắt chiêm
ngưỡng vẻ đẹp, nét thơ mộng
của chợ nổi Ngan Dừa mới thật
sự thấm thía nỗi buồn ấy.
Từ ngày chợ nổi Ngan Dừa
biến mất, thay vào đó là môt
trung tâm thương mại hoành
tráng, tôi đã rất nhiều, rất nhiều
lần trở lại với Hồng Dân, với
Ngan Dừa. Thế nhưng tôi
không thể tìm được hình ảnh
chợ nổi vừa như là hồn quê, vừa
như là một nét văn hóa đặc sắc,
không, phải nói là đặc sản của
người dân Nam Bộ nói chung,
dân vùng sông nước nói riêng
ấy nữa. Ngay cả người dân nơi
đây cũng có vẻ chưa kịp hòa
nhập với nhịp sống hối hả của
đô thị. Mà không khéo, với
những đổi thay nửa thành thị
nửa thôn quê, chẳng mấy chốc
Ngan Dừa chẳng còn lại những
nét cuốn hồn người một thời.
Tôi hay hỏi nhiều người
ở chợ huyện (bởi Ngan Dừa
cũng là thị trấn trung tâm của
huyện Hồng Dân), chợ nổi
mất rồi, người dưới bến sông
đi đâu, về đâu. Có ai còn nhớ
dòng sông quê, phiên chợ chất
đầy hàng hóa những buổi sáng
vẫn đậm hơi sương. Đáp lại
chỉ là những nụ cười buồn…
Người bám trụ cuối cùng
Khi đi tìm kiếm những
con người, những cuộc đời
đã từng gắn bó với bến sông,
với chợ nổi Ngan Dừa xưa,
tôi nghe kể nhiều về một
n g ư ờ i
đàn
bà
và chiếc ghe
nhỏ. Người ta kể
rằng chợ nổi đã đi vào
dĩ vàng gần chục năm rồi, bao
nhiêu người ngày xưa buôn
bán dưới sông, trên những
chiếc ghe hàng, xuồng chèo
cũng đã theo dòng thời gian
lên bờ kinh doanh ở những
hiệu tiệm, cửa hàng hoặc vào
khu chợ nhà lồng mà bán.
Còn dì, dì không đi. Vẫn
chiếc xuồng nhỏ lênh đênh
theo con nước lớn ròng, vẫn
ngày ngày ôm lấy một dòng
sông.
Dì tên thật là Nguyễn Thị
Mỹ, nhưng ở khu vực chợ
Ngan Dừa, người ta chỉ biết
đến bà Đen với ghe hủ tiếu trên
sông, gọi là hủ tiếu bà Đen. Hỏi
sao tên Mỹ đẹp
vậy, dì không đặt
cho hủ tiếu của
mình, dì Mỹ cười:
đời dì lênh đênh
trên chiếc ghe hủ
tiếu này đã hơn
30 năm. Từ khi
chợ nổi còn sung
túc cực thịnh đến
lúc nó biến mất, dì luôn ở dưới
sông. Xưa bán thì thả ghe trôi
theo dòng nước, mẹ bán con
chèo chống. Cái nắng, cái gió
khiến dì đen bóng nên người ta
quen kêu bà Đen, riết thành tên
cho ghe hủ tiếu luôn.
Từ ngày chợ nổi không còn,
dì Mỹ không chèo ghe đi bán
mà đậu ghe cặp theo bến sông
của gia đình. Nhưng dì vẫn
phải xuống ghe ngồi bán chứ
nhất quyết không chịu lên bờ.
Mấy đứa con của dì, đứa thì bàn
đưa mẹ lên Sài Gòn để phụng
dưỡng, đứa ở quê thì lén đóng
cho mẹ tủ bàn để lên phố mở
tiệm hủ tiếu (bởi hủ tiếu của dì
rất ngon, lại rẻ, bán ở đâu mà
chẳng đắt). Thương con, dì
cũng trèo lên bờ. Lúc lắc được
ba ngày ở Sài thành, nhìn tứ bề
nhà ống cao vòi vọi, dì chợt
rơi nước mắt nhớ quê. Về quê,
cũng nghe lời con, mở tiệm ra
bán trên bờ mà sao ánh mắt cứ
vọng ra bến sông, nghe tiếng
xuồng ghe chạy qua là dì nhấp
nhổm không yên.
Mấy đứa con thấy mẹ như
vậy không đành lòng, đành trả
dì về với chiếc ghe nhỏ dưới
bến. Dì mừng muốn khóc, líu
ríu mang nồi niêu xuống ghe,
chụm than chụm củi nổi lửa
từ tờ mờ sáng để đón những
khách quen vẫn
chưa rời bến
sông. Ghe hủ
tiếu bà Đen lại
chòng chành, lắc
lư mà nụ cười
của người phụ
nữ đã quá nửa
đời lênh đênh
trên sông nước
cứ rạng rỡ. Thật là lạ!
Chữ tình của người miền quê
Dì Mỹ nói với tôi giờ gia
đình dì khấm khá, con cái lớn
hết rồi, không phải cực khổ
kiếm sống như xưa. Nhưng
dì nhớ dòng sông với con
nước lớn ròng, nhớ cái lắc lư,
chòng chành của chiếc ghe,
nhớ những khách hàng thân
quen là những người nghèo
khó, lam lũ trên những ghe
hàng xuôi ngược miệt này.
Không có ghe hủ tiếu của dì
để lót dạ trước những buổi
chợ, họ phải nhịn đói, vì lên
tiệm, lên phố chợ ăn, tiền
đâu mà đủ.
Ngồi nói chuyện với dì một
chút thì đã có mấy chiếc ghe
tấp vào. Từ xa, liếc mắt dì đã
biết là anh Tư bán dừa hay
chú Sáu đi hàng bông. Mắt
nhìn, tay thoăn thoắt chuẩn
bị trụng hủ tiếu, xắt thịt. Hỏi
“Ủa, dì hổng hỏi người ta ăn
gì luôn hả?” thì dì cười, nụ
cười rất bình dị “Những ghe
hàng dưới dòng sông này dì
đều biết. Họ là khách hàng
của dì mấy chục năm rồi. Dì
thương họ lắm…”.
Câu nói sau cùng như thả
vào trong gió, tôi nghe vẫn
chưa hiểu. Cho đến khi tô
hủ tiếu tú hụ được anh Tư
dừa ngồi húp sì sụp, nghe
thoáng tiếng dì hỏi: “Còn
đói không, trụng thêm hủ
tiếu nghe”. Môt tô hủ tiếu
vừa thịt vừa xương, nhìn thôi
đã no bụng mà “bà Đen” chỉ
lấy có 10 đến 15 ngàn đồng,
chưa no thì được ăn thêm.
Còn mấy đứa học trò trường
huyện, nhà ở xa, buổi sáng
hay buổi trưa tan học, ôm
cặp ra bến sông, gọi bà Đen
ơi cho con 5 ngàn, 7 ngàn hủ
tiếu là no cái bụng đi học hay
học tiếp buổi chiều.
Tôi hỏi tiếp, dì bán vậy sao
lời? Dì cười, lời ít xịt hà. Nhưng
thích bán vậy đó. Tụi nó
nghèo, nhà xa, đi học được là
mừng cho nó. Mình phụ chút
công đức. Xưa bán là để nuôi
con, vì cuộc sống. Giờ bán là vì
nhớ sông, nhớ ghe, nhớ những
người quen xưa cũ.
Tôi xin dì Mỹ được phép
xuống ghe hủ tiếu của dì ngồi
thử. Ngồi một chút thì đã
không thể chịu được sự chòng
chành, lắc lư của sóng nước.
Nhất là khi có ghe xuồng lớn
chạy ngang, chiếc ghe với bao
nhiêu thứ đồ dùng dụng cụ trên
đó gần như muốn lật úp. Vậy
mà dì ngồi trên đó hơn 30 năm,
với nồi hủ tiếu lúc nào cũng
nóng hổi như tấm lòng thơm
thảo của dì với dòng sông, với
bến quê. Hình ảnh chiếc ghe hủ
tiếu bà Đen như là một k ức,
một điều cuối cùng còn sót lại
của hồn quê xưa.
Chia tay, tôi chỉ ước dì Mỹ
còn mạnh khỏe hoài, để hăng
ngày sông quê còn thấy bóng
con đò nhỏ với tiếng rao “Ai
hủ tiếu hông?”. Nếu vắng
những người như dì, sông quê
sẽ quạnh quẽ lắm…•
Ghe hủ tiếu bà Đen cứ
chòng chành, lắc lư theo
từng đợt sóng nhưng nụ
cười của người phụ nữ đã
quá nửa đời lênh đênh
trên sông nước cứ rạng rỡ.
Thật là lạ!
Hình ảnh chiếc ghe hủ tiếu
bà Đen như là một ký ức, một
điều cuối cùng còn sót lại của
hồn quê xưa.
KIMPHƯỢNG
một khúc
sông