30
XuânKỷHợi 2019
àng tôi nằm ven
sông Bạc
Liêu có cái
tên chân quê
là xóm Chà. Chẳng biết tên
gọi có tự bao giờ, người làng cứ suy
luận rằng nó xuất hiện từ khi có nghề
chất chà truyền thống. Hăng năm khi gió
chướng chớm thổi, cây so đũa trước nhà trổ
bông, ta bắt đầu thèm món canh chua cá
chốt bằng cẳng cái nấu với bông so đũa… là
bắt đầu mùa chất chà của xóm. Cả xóm đổ
xô về các bến sông. Nếu như vụ lúa là để có
cái ăn suốt năm thì mùa chất chà là mọi nỗ lực
cho một cái Tết được vui vẻ. Quần áo mới, nồi
bánh tét, vài cặp dưa hấu… Tất tật đều trông
cậy vào mùa chà.
Đầu tiên người ta hạ những cây bần, cây mắm
cho chúng rụng lá, sau đó đi tìm nơi định vị cho
những đống chà, gọi nôm na là “bến chà”. Tìm
được bến chà trúng cá tôm là một việc rất khó. Ở
quê tôi có nhiều người chọn bến chà rất nổi tiếng.
Quanh họ có nhiều chuyện kỳ bí như lập đàn
khấn vái “bà thủy” rồi xõa tóc lặn xuống sông
làm phép kêu gọi âm binh lùa cá về chà. Việc
ấy linh ứng thật không thì tôi không biết,
nhưng có những đống chà cách nhau 20-30
m mà một đống thì chỉ dăm ba ký cá, một
đống lại vài trăm ký.
Bến chà được cào hết sình non
rồi cặm gượng (thành ô chữ nhật)
dài 30 m, ngang 0,5 m, sau
đó chất chà vô cho đầy.
Thông thường 25-30
ngày dỡ chà một lần,
tùy thuộc vào dự
báo chà có cá
n h i ề u
hay ít. Trước khi dỡ, người ta rang cám
hoặc bổ thuốc Bắc (toa này rất bí mật) để thảy
xuống dụ cá. Khuya chủ nhà đến rình nghe cá
“ăn mống” trong chà rồi mới quyết định dỡ.
Dỡ chà cần 7-10 người có kinh nghiệm, trong
đó có hai người lặn giỏi người ta đem đăng, lưới
bao xung quanh, đưa chà lên bờ xong thì lặn
“rạng” vào, chừa cái rọ chừng 2 m
2
. Khi này
cá tôm đã đặc cứng, chỉ cần đưa vợt xuống xúc.
Hồi đó tôm cá nhiều vô kể, có những đống chà
thu 5-7 chục ký cá chẻm, 2-3 chục ký tôm, rồi
cá lóc, cá ngát, cá lăng, cá nâu… Có những con
cá chẻm nặng 5-7 ký. Đống chà nào xui xẻo thì
xúc đầy một xuồng tam bản cá chốt, bán chẳng
ai mua, chỉ đem làm mắm. Mà hồi đó tôm cá rẻ
như bèo, tôm càng bán như cho, ai muốn ăn bao
nhiêu tùy thích.
Xứ tôi mỗi nhà đều có năm bảy đống chà, tùy
khả năng lao động của gia đình. Chà mọc liền
nhau, đặc kín hai bờ sông. Mỗi lần dỡ chà, gia chủ
thông báo thì trai tráng ở xóm tự giác mang dụng
cụ đến giúp, bất kể khuya sớm. Có những đêm rất
khuya gió bấc lạnh thấu xương (vì dỡ chà phụ thuộc
vào thủy triều) phải lặn xuống nước nhưng người
ta cũng vạn vần đổi công đều đặn. Mối quan hệ
thân ái này đã thành nếp sống lâu đời ở xóm
Chà. Những đêm khuya dỡ chà thì tiếng í
ới vang động một khúc sông, người ta nghỉ
tay nướng tôm, mỗi người cầm một con
tôm càng bằng nắm tay để nhâm nhi
với rượu đế cho ấm. Người đến giúp
được gia chủ đãi một bữa cơm rượu
thật ngon. Muốn ăn bao nhiêu tôm,
cá tùy thích. Khi về được biếu cho
một mớ tôm cá làm quà.
Chuyện về xóm chà của tôi đã
cách đây 30-40 năm. Sông nước
thì lạnh lẽo và vô tri, vậy đó mà
từ khi nghề chất chà xuất hiện thì
tự nhiên dòng sông quê tôi có hồn.
Những năm lớn lên đi xa, cái hồn
sông nước ấy cứ bám theo tôi để gợi
thương gợi nhớ quê nhà.
Một ngày giật mình ngẫm lại, các
xóm làng ven sông có tên gọi xóm
Chài, xóm Lưới… đã mất
phiên hiệu, đã lặn sâu vào
vũng thời gian nào, thay vào
đó là những xóm Tân Lập, Tân
Tạo… vô hồn. Xóm Chà của tôi
cũng ra đi, nghề chất chà truyền thống
mất đi từ thuở nào không ai nhớ. Mỗi
lần về quê ra đứng trên bến sông, cái
đập vào mắt tôi là một dòng sông hoang
vắng. Nguồn lợi trên sông đã không còn
thì người ven sông lên bờ chạy chợ bung
ra làm ăn. Tình cảm gắn bó giữa các dòng
sông và con người đã
trở nên nhạt
phai.•
Xóm Chà của tôi, xóm Lưới của anh.
Những tên xóm như một chỉ dấu cho vùng
đất ven sông đã từng trù phú, phì nhiêu.
Giờ đây, ngay cả cái tên cũng đã mất dần.
PHAN VĨNH LỘC
nhạt phai
giờđã
XómChà