Xuan-final-2019 - page 51

25
XuânKỷHợi 2019
T
huở Minh Hải
chưa chia tách, việc
tìm các tài liệu điều
tra về sông rạch gần
như mù mịt. Thế là
từ đó tôi đành phải lang thang
men theo các bờ sông hai tỉnh
Bạc Liêu, Cà Mau, bằng đôi
mắt trần tục của kẻ hậu sinh
hàm hồ luận về những dòng
sông già cỗi.
Người đã đến phả hồn
vào sông
Vùng phía Nam sông
Mekong chạy dài đến mũi Cà
Mau xưa được gọi là miệt Hậu
Giang. Nếu đồng bằng sông
Cửu Long có hệ thống sông
ngòi vào bậc nhất
nước thì ở miệt
Hậu Giang sông
rạch chằng chịt
nhất vùng châu
thổ này. Nói hóm
hỉnh, Hậu Giang
là “đỉnh của đỉnh”.
Khi Nguyễn Đình Chiểu
viết
“Bến Nghé cửa Tiền tan
bọt nước/Đồng Nai tranh ngói
nhuốm màu mây”
thì một đợt di
dân lớn về miệt Hậu Giang đã
diễn ra. Nhà văn Nga K. Xta-
nhin Kê-vích đã viết trong
quyển hồi ký
Vòng quanh thế
giới trên tàu Coóc Xun
khi ông
đến Nam bộ năm 1861: “Khi
A-xa-nhin đi thăm sông Đồng
Nai anh mới biết nguyên nhân
của sự quạnh vắng này là do
cuộc chiến tranh mới đây gây
ra khắp nơi, những đống đổ
nát, những xóm làng bị thiêu
hủy. Trong cuộc chiến tranh
này người Pháp đã đốt từng
làng, từng nhà”. Từ đó dân
Sài Gòn-Gia Định và miệt
Tiền Giang khoác đời lưu dân,
bồng bế nhau lên những chiếc
ghe cui, ghe bầu… vượt sông
Tiền, sông Hậu tiến vào miệt
Hậu Giang. Họ cứ luồn lách
theo sông rạch chằng chịt của
đồng bằng mà đi miết, ngó
nhìn hai bên bờ thấy nơi nào
có người thì ghé vào, hoặc các
vàm sông nơi có địa thế dễ
làm thủy lợi, chống úng, xổ
phèn… thì lên bờ khai phá.
Thuở ấy không có mâu thuẫn
vật chất giữa kẻ mới và người
cũ mà chỉ có lợi ích thôi. Đất
đai hằng hà, muốn khai phá
bao nhiêu cũng được, người ở
càng đông thì càng có lợi, trộm
cướp không dám bén mảng,
thú rừng ít phá hại mùa màng.
Điều đó hình thành tính cách
mến khách đặc biệt của người
Hậu Giang. Tính cách này thể
hiện rất rõ từ đầu thế kỷ 20 trở
về trước. Trong nhà nông dân
kha khá một chút
bao giờ cũng có
hai bộ ván ngựa
gõ để ở nhà trước
dành cho khách
ở. Khách đến bất
luận thân sơ quen
lạ đều được chủ nhà tiếp cơm,
rượu ngày ba bữa, chỉ đất hoang
cho khai phá, cho mượn trâu
cày bừa… Chứa khách trong
nhà hai, ba năm mà chẳng nói
đến gạo thóc là chuyện bình
thường của người Hậu Giang.
Một thuở ghe là nhà, sông
nước là đất phì nhiêu
Ngày nay, đi trên quốc lộ
1A nhiều người vẫn ngộ nhận
là dân cư sống tập trung theo
quốc lộ. Nhưng xét ở tổng
thể, người dân vẫn đa số sống
bám vào sông. Họ đã phả vào
những dòng sông già cỗi và
lạnh giá kia một luồng sinh
khí ấm áp để mà nuôi dưỡng,
hình thành cái hồn sông rạch.
Sống ở ven sông thì việc đầu
tiên là cư dân phải dần thích nghi
với sông rạch. Ở quê tôi con nít
năm tuổi có thể phóng xuống
sông lội ùm qua sông rộng 50-
70 m. Đại bộ phận dân cư đều
có chiếc xuồng, đó là phương
tiện đi lại chủ yếu của họ. Lại
có một bộ phận dân cư không
cần sống trên đất liền, vợ chồng
con cái sống trên ghe, khoác
kiếp giang hồ rày đây mai đó.
Họ làm ăn trên ghe, cưới vợ, gả
chồng, ma chay, đình đám…
đều trên ghe. Ghe là nhà, sông
nước là mảnh đất phì nhiêu của
họ. Không có ở đâu lạ lùng như
sông nước miền Tây với hiện
tượng chợ nổi trên sông, chợ
cũng nhóm họp có phiên, cũng
mua bán ỳ xèo và hàng hóa thì
vô cùng phong phú.
Sông nước phương Nam vốn
có trữ lượng tôm cá vào bậc
nhất nước. Một đục đáy sông
có thể đổ ra đầy một xuồng ba
lá cá kèo. Xin kể một cách ăn
cá kèo của các chủ trại đáy Bạc
Liêu hầu bạn đọc: Họ lấy đũa
gắp ngang đầu con cá kèo bằng
ngón tay cái rồi bỏ tuốt vào
miệng, sau đó “vuốt” một cái…
trên đũa họ chỉ còn cái đầu cá
và bộ xương. Và họ giải thích:
Khúc đuôi và khúc bụng cá
kèo có vị ngon khác nhau, mỗi
người thíchmột thứ. Khách đến
nhà biết tánh ý đâu mà lựa, thôi
thì cứ “đẩy” nguyên con vừa
đẹp lòng nhau vừa “đã” miệng,
vừa xứng với “tầm vóc” xứ cá
kèo. Chính sự giàu có của sông
rạch đã làm nảy sinh những địa
danh lạ lùng như Xóm Chài,
Xóm Đáy, Xóm Câu, Xóm
Lưới… Ở đó cư dân triển khai
một đời sống vô cùng phong
phú trên sông nước.
Và những dòng sông đang
cạn kiệt dần
Người ta mê Cần Thơ không
chỉ vì có gạo dẻo thơm mà còn
có nước sông Hậu uống vào
ngọt lành, hễ con gái tắm thì
da trắng như bông bưởi. Thế
nhưng ngày nay chẳng ai dám
uống nước các dòng sông miệt
Hậu Giang nữa rồi. Cư dân ở
đó đang tự hủy hoại dòng sông
của mình. Chính các dòng sông
đã góp phần nuôi nấng nhiều
thế hệ, vậy mà có kẻ lại mang
bao nhiêu xú uế thải xuống
dòng sông.
Tại trung tâm kinh tế xã hội
của hai tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau,
hệ thống cống rãnh mang theo
nước thải của bệnh viện, của
chợ, của khu dân cư… chưa
thông qua xử lý đã đổ thẳng ra
sông Bạc Liêu, Cà Mau. Môi
trường nước ô uế nặng nề và
dĩ nhiên nó ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nguồn lợi thủy sản.
Chưa hết, việc đánh bắt cá tôm
ngày nay xem chừng rất “đoản
hậu”. Vài ba trăm năm trước,
những cư dân đầu tiên đã sáng
tạo nhiều loại công cụ đánh bắt
tôm cá thì ngày nay lớp “hậu
sinh khả úy” chẳng những giữ
nguyên mà còn sáng tạo thêm
nhiều công cụ, kiểu cách sát
hại tôm cá hàng loạt và tinh vi
hơn. Có thể kể một lô lốc các
nghề đánh bắt trên sông rạch
như sau: đăng, đó, lợp, lờ, lú,
chà, chài, lưới, vó, câu, nò…
Công cụ cũ được áp dụng cho
một mật độ tôm cá cũ, một môi
trường sinh thái cũ thì không
có gì đáng nói. Bởi ngày xưa
đó tôm cá hằng hà, ai muốn bắt
bao nhiêu cũng được. Cái đáng
bàn là tôm cá ngày càng ít đi
nhưng số lượng công cụ đánh
bắt càng nhiều. Số liệu của tỉnh
Minh Hải (cũ) năm 1996 thể
hiện: 4.000 miếng đáy, 50.000
cơ sở đó, nò, lú, 500 phương
tiện làm nghề chài, 12.000 m
đăng mành xanh… đang ra
sức bao vây, chặn bắt cá tôm
trên 11.000 km sông rạch của
hai tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu.
Đến nay, số lượng phương tiện
đánh bắt tôm cá và phương
cách đánh bắt vẫn phát triển và
biến thiên khôn lường. Những
năm gần đây đã xuất hiện một
cách đánh bắt ác nghiệt là xuyệt
điện khiến cho tôm cá lớn chết
sạch và hủy diệt luôn cá tôm
con, thế hệ kế tiếp để duy trì
nòi giống của chúng.
Sông chan chứa bao nhiêu
cũng không thể đọ nổi với
lòng tham của con người.
Sông bây giờ đã trở về sự lạnh
lẽo cố hữu của nó, bởi chẳng
còn ai sưởi ấm hồn sông.
Những lần đứng trên bến sông
quê như thế, tôi hay lẩm bẩm
bốn câu thơ của Hoài Khanh:
Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
Vâng! Lòng tôi cũng đang
hoang vu.•
Sông chan chứa bao nhiêu cũng không thể đọ nổi với lòng tham
của con người. Sông bây giờ đã trở về sự lạnh lẽo cố hữu của nó,
bởi chẳng còn ai sưởi ấm hồn sông.
PHAN TRUNG NGHĨA
Bạc Liêu, Cà Mau có bảy con sông tự nhiên, trong đó phải
kể đến sông Cửu Long rộng đến 600 m và sâu đến 12 m. Bắt
đầu từ bảy cửa biển tương đối lớn (và các cửa nhỏ) chúng ta
đi dần về hạ nguồn thì sẽ thấy bàn tay khéo léo của tạo hóa.
Trên đôi bờ các dòng sông là nhiều nhánh rạch và trên đôi
bờ các nhánh rạch là dày đặc mương, lạch… lan tỏa, ăn sâu
vào ruộng đất như một trận đồ bát quái.
Tuy thế, với mục đích giao thông, tiêu thoát nước và nhằm
tạo điều kiện cho việc vơ vét của cải xứ An Nam, người Pháp
từ thế kỷ thứ 19 cho đến giữa thế kỷ 20 đã cho đào thêm rất
nhiều kênh lớn nhỏ. Những người già kể rằng: Thuở ấy mông
muội, dân ta chưa hiểu khoa học kỹ thuật, nghe tiếng cơ giới
(tàu cuốc, tàu xáng) rít ầm à thì sợ lắm, bảo rằng “xáng la”
đòi ăn thịt con nít. Ngoài việc sử dụng cơ giới, người Pháp
còn bắt dân ta làm xâu, đào kênh, đắp lộ. Có lúc họ huy động
hàng chục ngàn người để đào kênh xáng và đắp lộ Bạc Liêu-
Cà Mau vào năm 1903.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chúng ta đã
đào một hệ thống kênh mương để tiêu úng, xổ phèn, làm
thủy lợi nội đồng rất lớn. Có một ước tính cho rằng chiều dài
của sông rạch Bạc Liêu, Cà Mau lên đến hơn 11 ngàn cây số,
tức gấp ba lần chiều dài đất nước Việt Nam.
Sông còn đây mà cái văn
hóa sông rạch đã nhạt
nhòa, thế nên tôi ngồi đó
mà hoài cảm những dòng
sông ngày cũ.
miệt HậuGiang…
Sôngở
1...,41,42,43,44,45,46,47,48,49,50 52,53,54,55,56,57,58,59,60,61,...109
Powered by FlippingBook